Bản văn Ông Mười : Các bản văn chầu Ông Hoàng Mười Nghệ An

Bản văn Ông Mười gồm bản văn chầu cùng điệu phú chuốc rượu, các đoạn thơ phú, hò Nghệ An và các làn điệu cải lương Ông Hoàng Mười hay nhất…

Ban van Ong Muoi

Cành hồng thấp thoáng trăng thanh,
Nghệ An có đức thánh minh ra đời.
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung.
Thanh xuân một đấng anh hùng.
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam.

Hoa sen vàng

Thần tích về Ông Hoàng Mười

Ông Hoàng Mười, hay Ông Hoàng Mười Nghệ An là vị thánh Hoàng nổi danh tai hoa, sang trọng, văn võ kiêm toàn. Huyền tích về Ông Mười trong dân gian có nhiều, tường tuyền ông quê Nghệ An, có nhiều công lao vào dân, với nước.

Trong thần điện và trong nghi lễ hầu đồng, Ông Hoàng Mười ngự áo màu vàng. Đền chính thờ Ông được biết đến nhiều nhất là Mỏ Hạc Linh Từ (Xuân Nam, Hưng Nguyên, Nghệ An); đền Chợ Củi (Xuần Hồng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Mới đây có ngôi đến Dinh đô Quan Hoàng Mười (xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh) được phục dựng

Ngày tiệc Ông là 10 tháng Mười (âm lịch) hằng năm, thập phương lễ bái cầu tài lộc, công danh, khoa cữ.

Tìm hiểu đầy đủ hơn về Ông Hoàng Mười

Bản văn Chầu Ông Hoàng Mười

Cành hồng thấp thoáng trăng thanh,
Nghệ An có đức thánh minh ra đời.
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung.
Thanh xuân một đấng anh hùng.
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam.
Hai vai nặng gánh cương thường,
Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo.
Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu,
Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi.
Khi Bích động lúc Bồng lai,
Non nhân, nước trí mọi nơi ra vào
Cỏ hoa hớn hở đón chào.
Nhớ xưa Lưu Nguyễn lạc vào Thiên thai.
Trời Nam có đức Hoàng Mười,
Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai.
Nền chí dũng, bậc thiên tài,
Văn thao – Võ lược tư Trời thông minh.
Tiêu dao di dưỡng tang tình.
Thơ Tiên một túi – Phật Kinh trăm tờ.
Khi Phong nguyệt, lúc bi từ.
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng trong.
Khi Thiếu lĩnh, lúc non Bồng,
Cành cây mắc võng, lòng sông ngự thuyền.
Người Thành thị, khách Lâm tuyền,
Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang.
Phong quang đẹp ý Đức Hoàng.
Khác nào Thu cúc – Xuân lan tới tuần.
Xiết bao bể ái, nguồn ân.
Ban Tài, tiếp Lộc, thi nhân, thi từ.
Cát đằng thuận gió xuân đưa
Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu
Năm ba Tiên nữ theo hầu,
Trăm hoa cài tóc, nhiễu Tàu vắt vai.
Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi,
Dâng câu thiên bảo chúc lời tăng long
Trần duyên chưa trút được lòng,
Đường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên.
Nghe thường hội nghị quần Tiên,
Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng.
Vân tiên mượn cánh chim hồng,
Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng ?
Cầu Ô đem bắc sông Ngân,
Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng
Bóng trăng soi tỏ canh trường.
Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người.
Thủy tiên dìu dặt đón mời,
Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng.
Vượt bể đào tới ngàn xanh.
Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non.
Trúc xinh cô Quế cũng giòn.
Phù dung yểu điệu – Mẫu đơn não nùng.
Ngày ngày lên núi ngóng trông.
Đỏ hai khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng.
Nhớ xưa hẹn ngọc, thề vàng.
Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi
Lên núi rồi lại xuống đồi,
Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ.
Vào rừng hái lá đề thơ,
Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người.
Cõi Trần mở tiệc mừng vui.
Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh.
Rượu đào kính chúc Thánh minh.
Phong hoa, tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương.
Ngẫm câu Thế sự vô thường
Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần
Vắng người vắng cả mùa Xuân.
Nhớ người vì Nước, vì Dân, vì Đời.
Thế gian nhớ miệng Hoàng cười
Nhớ khăn Hoàng chít, nhớ lời Hoàng ban.
Khi phố Cát, lúc đồi Ngang,
Nón kinh vó ngựa, dăm ngàn tiêu dao.
Đường đường cung kiếm anh hào,
Túi thơ, bầu rượu sớm chiều sênh sang.
Hèo hoa chảy hội Tiên hương
Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây.
Khi nương gió, lúc cưỡi mây.
Khi rung khánh ngọc, khi lay chuông vàng.
Hoàng về gối xếp ai mang,
Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông.
Lệnh truyền cô Quế, cô Hồng,
Hèo hoa, gối xếp, đèn lồng tay mang.
Cô Lan, cô Huệ xếp hàng,
Gióng yên, dắt ngựa lên đàng vân du.
Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa,
Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ An3

cuon thu dai lua

Bản văn Ông Mười – Phú chuốc rượu

Bồ đào tửu Linh Sơn tiên nữ cất
Đợi xuân về hội nghị quần tiên
Rượu nồng tiên nữ dâng lên
Tuần sơ dâng tiến án tiền mời Hoàng xơi
Hoàng cúc bôi trung đường tiên tửu
Hằng Nga thiên thượng tuyết thu ba
Tay tiên chuốc chén hoàng hoa
Nhị tuần dâng tiến mới đà thiết thi
Sao thế nhỉ trăng khi mờ khi tỏ
Gớm ghê thay nàng Ngọc Thỏ đa tình
Tay tiên chuốc chén rượu quỳnh
Tam tuần hiến,hỏi ba vạn sáu ngàn ngày là mấy…

cuon thu dai lua

Thơ Quan Hoàng Mười

Bởi tiền thế tu nhân tích đức
Khiến xui lên gặp bạn tiên cung
Nợ trần hoàn vương vấn chưa xong
Giục lòng khách mơ mòng tưởng nhớ

Nay đến lúc Hoàng về người ở
Thôi thôi đành vĩnh cách trường ly
Nghĩa trăm năm còn bức ca thi
Dâng hoàng tử làm khi tiễn biệt

Một lối lên tiên nhẹ gót trần
Mây trời cỏ đất hội long vân
Ba sinh gặp gỡ say vì cảnh
Một phút mơ màng vạn cảnh xuân

Văng vẳng bên tai cung đàn nguyệt
Vang vang trong động thú chào xuân
Chẳng hay cảnh ấy về đâu tá
Mong tới nguyên đào vẫn chủ nhân

Hoa đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh bước trần ai
Ước cũ duyên xưa có thế thôi

Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Cánh hạc bay cao vút tận trời
Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi

Yên hà lối trước lại lần sau
Nước biếc non xanh thắm một màu
Đàn hát hôm nay êm dìu dịu
Hạt mây này nọ sạch lầu lầu

Cây xưa lối cũ say vì cảnh
Gió mới xuân về chẳng khác xưa
Nhìn tiên cảnh năm xưa còn đứng đó
Hỏi người năm cũ bây giờ đâu

cuon thu dai lua

Làn điệu Hò Nghệ An Quan Hoàng Mười

Đất lề quê thói Nghệ An
Miếng trầu cau đậu dâng quan Hoàng Mười

Trông hoa lại nhớ đến Người
Đông về lại nhớ Hoàng Mười Nghệ An

Đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa

Vung gươm lên ngựa đề cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam

Chí anh hùng ra tay giữ nước
Đi tới đâu giặc phải tan ngay

Việt Nam ghi nhớ sử này
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang

Khi hội nghị luận bàn việc nước
Hoàng mang tài thao lược hiến dâng

Lĩnh sắc rồng khiển tướng điều quân
Gươm thiêng ba thước,ngựa hồng xông pha

Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ,
Đò từ Đầm Đá tới Phú Vân Lâu

Non xanh nước biếc một màu
Một con đò nhỏ đưa ghế ông về thăm cảnh Nghệ An

Cũng có phen lên ngàn xuống bể
Trở ra về phủ tía lầu son

Cũng có phen ngắm ánh trăng tròn
Khi xem huê nở khi chờ trăng lên

Đường về xứ Nghệ nghĩa tình,
Sông Lam núi Quyết địa linh bao đời,

Tam Kỳ Mỏ Hạc là nơi,
Đền thờ lăng mộ đời đời khói nhang

Nước sông Lam răng trong răng đục
Gạo chợ Chùa vừa trắng vừa trong

Ghế ông tình mặn nghĩa nồng
Điều lành điều dữ sá cùng trần gian

Muối ba năm muối kia còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Ghế ông đây tình nặng nghĩa dày
Xa xôi chăng mấy cũng về đây ngự đồng

Thuyền rồng còn đợi bến sông
Chở các thanh đồng đi hội trong Nghệ An

Cho dù cách trở sông Lam
Có cầu Bến Thuỷ bắc ngang đôi bờ

Dòng sông Lam bên lở bên bồi
Dấu thiêng Hoàng để muôn đời khói nhang

Đất Thiên Bản còn nhớ người trấn thủ
Đền Mẫu Phủ Giày còn lồng lộng chữ công danh

Ông Mười trấn thủ trong thành
Mười ba năm lẻ còn nức danh tướng tài

Thành Huế ơi sông Hương răng núi Ngự
Cầu Tràng Tiền,Bến Thủy đẹp long lanh

Năm cửa ô về tới đô thành
Nam Đàn xứ Nghệ nức danh Hoàng Mười

Đường vô xứ Nghệ loanh quanh
Nơi Ông Mười ngự như tranh họa đồ

Ai vô xứ Nghệ thời vô
Qua cầu Bến Thuỷ tới kinh đô Hoàng Mười

Ngắm xem phong cảnh đất trời
Nghệ An mến khách mến người trọng ân

Cỏ cây chưa trút bụi trần
Đường về chẳng biết rằng gần hay xa

Xinh thay hỡi thú yên hà
Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ nhân

Đường xa muôn dặm cũng gần
Giáng lâm giá vũ đằng vân ngự đồng

Chim khôn đã phải cẩm lồng
Cau non, thuốc lá chiều lòng (Hoàng) ăn chơi

Vân du góc bể chân trời
Không đâu lịch sự bằng nơi đền này

Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây
Sông Lam hết nước ghế ông đây chưa hết lộc tài

Độ cho đắc lộc tài sai
Thọ khang phú quý trong ngoài hanh thông

Bốn mùa xuân hạ thu đông
Thu Đông tiếp lộc,hạ xuân tiếp tài

Ai mà ăn nói đơn sai
Dù cho của cải cũng để ngoài bể đông

Thương ai chấp lính nhận đồng
Tu nhân tích đức lên công vẹn thành

Ai ơi nên ở cho lành
Kiếp này chưa trọn Hoàng để dành kiếp sau

Nào trời có phụ ai đâu
Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm

Ai mà tích đức tu nhân
Đắp bồi cội phúc thêm phần đề đa

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Ghế Hoàng bao nhiêu tuổi mà vẫn hào hoa như thuở nào

Trên trời vằng vặc ngôi sao
Trời nam chói lọi anh hào cổ xưa

Thương người dầu dãi nắng mưa
Thương người đi sớm về trưa nặng lòng

Chứng tâm chứng lộc cho đồng
Cho cầu nên ước được gia trung thuận hoà

Các cô quạt nước pha trà
Quần tiên múa hát xướng ca hoạ vần

Cô dâng lên chiếc quạt trầm
Nghiên vàng bút ngọc ân cần khoan thai

Đầu lược giắt,chân giậm văn hài
Cô cả dâng điếu ngự,cô nàng hai theo hầu

Cô ba gối xếp theo sau
Đất lề quê thói cô tư têm trầu Hoàng xơi

Cô năm dâng giá gương soi
Còn cô nàng sáu rượu mời dâng ông

Cô bảy dâng đoá huê hồng
Còn cô nàng tám kiệu rồng rước(ông Mười) lên

Cô Chín múa lượn xênh tiền
Thướt tha yểu điệu khách tiên mơ màng

Cô Mười thỏ thẻ oanh vàng
Tiếng tiêu cô thổi khiến lòng Hoàng nâng nâng

Cô mười một thơ hoạ đôi vần
Dâng ông quý vật kì tân đủ mùi

Cô mười hai sắc nước hương trời
Mười hai cô tiên nữ phò giá Ông Mười lai kinh

cuon thu dai lua

Làn điệu Lý xứ Nghệ bản văn Quan Hoàng Mười

Thuyền ai thả lưới buông câu
khoan hỡi dô khoan thuyền quan hoàng thập
dập dìu trên sông sóng nước mênh mông


Hương ngát bay trong đền lòng Hoàng thấy nâng nâng
Uy danh sáng soi muôn đời một lòng giữ yên trời nam
Muôn dân bắc nam phụng thờ hoàng độ cho nước non bình an

Lòng hoàng thương đồng còn nhiều gian nan
Nắng mưa không quản xin hoàng chứng cho lòng con
Tâm tư theo cánh nhạn hồng gửi về xứ thiên trời nam
Độ cho phúc lâu giàu bền lộc vô nhà như nước dòng sông lam

Bên dòng sông lam có đền đức quan Hoàng Mười
Địa linh nhân kiệt vang danh lưu dấu muôn đời
Ngự đồng chơi hào hoa phong nhã
Bao người ngóng trông hộ quốc dân an cho mai sau đời đời ấm no

Phúc lai cho thanh đồng ghế ông hằng ghi nhớ mãi
Con cúi xin ông mười ông về tiếp lộc để lần sau.​

cuon thu dai lua

Bản văn Hoàng Mười điệu cải lương

Điệu cải lương Ông Mười điệu 1

Nghệ An, danh nức danh ông Mười,
Đai vàng, ngài vận áo vàng anh, về đây giá ngự đồng.
Đệ tử cung văn con mang lời ca hiến dâng ông Mười,
cầu ông giáng phúc giáng thương độ cho dân chúng.
Dân chúng giàu sang bình an, sống yên vui hạnh phúc muôn đời.


Trong vùng Khu Tư còn vang tiếng đồn,
Cầm quân giết giặc giữ non sông nước Nam thanh bình.
Giặc thua hồn tan phách tán, tan nát chịu thua.
Ông đi tới đâu chúng dân vui đón mừng ông,
Chiến công ông Mười ngàn năm lòng dân ghi nhớ.
Chúng con chung lòng xây dựng đất nước đẹp tươi.

Điệu cải lương Ông Mười điệu 2

Làn điệu Vọng Kim Lang

Bài 1

Khoan hỡi dô khoan thuyền Quan Hoàng mười dập dìu trên sông…
Sóng nước mênh mông.
Cung kính ngôi tam toà, hương – ngát bay trong đền lòng Hoàng Mười thấy lâng lâng
Uy danh sáng soi một đời, Hoàng dựng cờ giữ yên trời Nam
Muôn dân Bắc Trung Nam sum vầy, Hoàng độ cho non nước bình an.

Lòng Hoàng thương đồng – còn nhiều gian nan, nắng mưa nhọc nhằn – Xin Hoàng chứng chiếu lòng con.
Tâm thư theo cánh nhạn hồng gửi về – từ đất Nghệ An.
Hoàng độ cho Phúc lâu giàu bền,lộc vô nhà như nước dòng sông Lam

Nguyện ghi ơi – mãi công ơn của quan Hoàng Mười Nghệ An.

Thanh đồng con cung kính nhất tâm, xin ông Mười đoái thương.

Điệu 2

Khoan hỡi dô khoan thuyền đưa tới đền, cung kính ngôi tam tòa, hoàng về nghe hát cung văn
Hương ngát hương trong đền lòng Hoàng sao thấy lâng lâng
Danh nức danh ông Mười một đời Hoàng giữ yên trời Nam.
Lòng Hoàng thương đồng thương nhiều gian nan
Nắng sương nhọc nhằn lời ong với tiếng ve, chia xa đắng cay vơi đầy, nổi chìm cánh chim buồn tênh
Thương cho nước xuôi theo dòng, tiền vào nhà như nước dòng sông Lam
Từ nay chữ phúc đơm hoa, đem theo chữ tài hồi gia.
Chúng con hướng về Nghệ An, xin ông Mười đoái …thương…

Trên đây là các bản văn Ông Hoàng Mười gồm văn chầu cùng các đoạn phú, thơ, hò và các làn điệu cải lương hay nhất được Tín Ngưỡng Việt sưu tầm.

Cám ơn các Bạn đã theo dõi, kính chúc các bạn luôn vui vẻ, hạnh phúc…

Xem thêm