Ông Hoàng Mười : Sự tích và đền thờ Quan Hoàng Mười chi tiết

Ông Hoàng Mười là vị Quan Hoàng thứ mười trong hàng Thập Vị Ông Hoàng của Tín ngưỡng Tam – Tứ Phủ.

Cành hồng thấp thoáng trăng thanh,
Nghệ An có đức thánh minh ra đời.
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung.

Chim Phượng 2

Sơ lượng về Ông Hoàng Mười

Ong Hoang Muoi

Nguồn gốc: Con của Vua Cha Bát Hải Động Đình

Danh hiệu:

  • Ông Hoàng Mười
  • Ông Mười Nghệ An
  • Ông Mười Củi

Phủ/ nơi cai quản: Địa phủ

Trang phục/Màu sắc: Áo vàng

Đền thờ:

  • Đền Chợ Củi (Hà Tĩnh)
  • Mỏ Hạc Linh Từ (Nghệ An)
  • Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười (Hà Tĩnh)
  • Lăng mộ Ông Hoàng Mười (Nghệ An)
  • Đền thờ Cương Quốc Công Nguyễn Xí

Sự tích Ông Hoàng Mười

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần nhiều lần khác nhau để giúp dân phù đời.

Ông Hoàng Mười giáng thế làm Lý Nhật Quang

Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều. Có một sự tích cho rằng ông giảng xuống trần là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai Vua Lý Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.

Tuong Tho Ly Nhat Quang

Lý Nhật Quang, huỷ là Lý Hoảng , là con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, mẹ là Linh Hiển hoàng hậu (theo các nhà nghiên cứu là con của Lê Đại Hành và hoàng hậu Dương Vân Nga), hiệu là Bát lang hoàng tử. Như vậy, ông là anh em cùng mẹ với vua Lý Thái Tông.

Lý Nhật Quang nổi tiếng thông minh, 8 tuổi biết làm thơ, 10 tuổi tìm hiểu kinh sử. Ông được vua cha và hoàng tộc chăm lo dạy dỗ để sớm thành rường cột nước nhà.

Năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, anh cùng mẹ của Nhật Quang là Lý Phật Mã lên nổi ngôi, tức là Lý Thái Tông.

Năm Càn Phù Hữu Đạo thứ nhất (1039), Uy Minh Hầu Lý Hoàng được Lý Thái Tông cử vào châu Nghệ An lo việc thu thuế. Tại đây, Lý Nhật Quang làm việc cần mẫn, thu đủ số thuế được giao và không như các vị tiền nhiệm hà lạm thuế của dân nên được tiếng là thanh liêm, chính trực.

Năm 1041, xét thấy Lý Nhật Quang là người tin cẩn, Lý Thái Tông phong ông làm tri châu Nghệ An – tước hiệu là Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang. Lúc này, Nghệ An là một vùng biên ải phía Nam của nước Đại Việt, việc quản lý còn lỏng lẻo. Nhiều cuộc nổi dậy ở địa phương có tính chất phản loạn, gây sự phiền nhiễu cho nhân dân, triều đình phải nhiều phen dẹp loạn. Nhưng sau khi Lý Nhật Quang được cử làm Tri châu, tình hình xã hội ở Nghệ An dần dần ổn định, kỷ cương phép nước được lập lại. Ông đã cho làm sổ sách thống kê hộ khẩu, nhận định. Theo sử gia Phan Huy Chủ: “Đời Lý, việc kiểm soát hộ tịch rất là nghiêm ngặt. Dân đinh nào đến 18 tuổi thì biên vào sổ bìa vàng, gọi là Hoàng nam, đến 20 tuổi gọi là Đại Hoàng nam”. Những biện pháp quản lý xã hội của Lý Nhật Quang cùng với sự độ lượng và tư tưởng thân dân của Ông dần dần đã cảm hóa và quy phục được tất cả mọi tầng lớp nhân dân, làm cho vùng đất vốn phức tạp đã trở nên thuần hậu và thống nhất.

Khi ấy Lý Thái Tông đã có ý định đánh chiếm Chiêm Thành, vua giao Lý Nhật Quang chuẩn bị làm một hoành doanh dọc Sông Bà Hoà (nay thuộc huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hoá) gọi là trại Bà Hoà. Năm 1044, Lý Thái Tông cất quân đánh Chiêm Thành, nhờ có Trại Bà Hoà kiên cố và đầy đủ lương thực, quân sĩ yên tâm chiến đấu. Trong trận chiến lớn bên sông Ngũ Bồ, tướng Quách Gia Di chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Khi vua Lý Thái Tông khải hoàn đến trại Bà Hoà, Lý Nhật Quang nghênh đón nhà vua và quân sĩ trọng thể, Lý Nhật Quang được vua phong từ tước Hầu lên tước Vương.

Lý Nhật Quang hết sức coi trọng việc phát triển kinh tế, khuyến khích, hướng dẫn nhân dân mở mang nghề nghiệp, khai thác mọi tiềm năng của vùng đất xứ Nghệ. Cùng với việc chiêu dân, khai hoang, lập ấp, Ông còn dạy cho dân chúng nghề nông tang, dệt lụa, dệt vải… Ông trở thành tổ sư của nhiều ngành nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An. Với cái nhìn có tính chiến lược, dưới con mắt của một danh tướng tinh thông binh pháp, uyên thâm phật pháp, Lý Nhật Quang đã chọn vùng Bạch Đường (nay gồm 3 xã: Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn – huyện Đô Lương)- là nơi có vị trí trung tâm của cả châu, công, thủ đều thuận lợi- để xây dựng lỵ sở. Vùng Phật Kệ vốn trung tâm Phật giáo của châu Nghệ An chuyển lên vùng Bạch Đường cách khoảng 5km ngược dòng sông Lam. Từ đây, Lý Nhật Quang đã ban hành và cho thực hiện nhiều chính sách tiến bộ và táo bạo để mở mang phát triển sản xuất. Các vùng Khe Bố, Cự Đồn (Con Cuông), Nam Hoa (Nam Đàn), Hoàng Mai (Quỳnh Lưu), Công Trung (Yên Thành), Vinh, Nghi Xuân, Kỳ Anh (Hà Tĩnh)… là do Ông chiêu dân lập ấp và sử dụng tù binh để khai khẩn đất hoang. Ông đã cho mở 2 con đường thượng đạo: 1 từ Đô Lương ra Thanh Hoá rồi ra Thăng Long, 1 từ Đô Lương lên Kỳ Sơn. Ông cho đào và nạo vét các đoạn sông Đa Cái ở Hưng Nguyên, kênh Sắt ở Nghi Lộc; kênh Son, kênh Dâu ở Quỳnh Lưu. Ông còn khởi xướng việc đắp đê sông Lam. Không những quan tâm đến đời sống vật chất cho dân, Ông còn rất quan tâm đến đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, cho xây dựng nhiều chùa thờ Phật để nhân dân đến sinh hoạt văn hoá tâm linh. Có thể nói, những việc làm có tính chất mở đầu ở một vùng biên viễn của Lý Nhật Quang đã đạt đến tầm cỡ của một nhà chiến lược, vừa an dân, vừa tạo dựng tiềm năng, thế mạnh để giữ gìn bờ cõi.

Uy Minh Vương Lý Nhật Quang đã góp phần giải quyết ổn thoả sự xung đột trong nội bộ Chiêm Thành, đồng thời tạo dựng mối quan hệ hoà hiếu giữa Chiêm Thành với Đại Việt.

Thần tích đền Quả Sơn đã ghi rõ:

“Ngài ở châu 19 năm, trừng trị kẻ gian, khen thưởng người lành, khai khẩn đất hoang, chiêu mộ lưu dân, bọn vô lại phải im hơi, người dân về với Ngài được yên nghiệp. Ngài thường qua lại vùng này, vùng khác, dạy nghề làm ruộng, trồng cây cối, nuôi gia súc, có nhiều chính sách lợi cho dân, làm cho nhân dân đoàn kết. Người dân đến kiện tụng thì lấy liêm, sỹ, lễ, nghĩa giảng dạy làm cho tự giác ngộ, ai nấy đều cảm hoá, không bàn đến chuyện kiện cáo nữa. Mọi người đều gọi Ngài là Triệu Công”.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết về Lý Nhật Quang như sau: “Mùa thu, tháng 7 (năm Giáp Thân, 1044), vua (Thái Tôn Hoàng đế) đem quân vào thành Phật Thệ, bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung những kẻ nào giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên. Sai sứ đi khắp các hương ấp, phủ dụ nhân dân. Các quan mừng thẳng trận. Tháng 8, đem quân về. Đến hành dinh Nghệ An, gọi Uy Minh Hầu là Nhật Quang đến để an ủi và trao tiết việt cho trấn thủ châu ấy, gia phong tước vương. Trước đây vua uỷ cho Uy Minh thu thuế châu Nghệ An và sai đặt trại Bà Hoà cho trấn được bền vững; lại đặt điểm canh ở các nơi, chứa lương thực đầy đủ, cái gì cũng vừa ý vua, cho nên được tước phong như thế.”

Hiện vẫn còn nhiều giả thuyết về cái chết của Lý Nhật Quang. Thần phá đền Quả Sơn viết rằng Lý Nhật Quang hi sinh trong trận chiến với giặc, bị chém ngang cổ nhưng đầu không lìa, đến núi Quả thì ngựa quỵ xuống, ông qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm 1057.

Sách Việt điện u linh tập chép rằng một tối ông thấy ba con quạ bay 3 vòng quanh vương rồi sà vào lòng thành tờ giấy trắng. Ông thiếp đi thì gặp thần sao Vũ Khúc mời về trời làm quan. Vương không bệnh mà mất.

Lý Thái Tông phong Lý Nhật Quang từ tước Hầu lên Tước Vương. Nhân dân suy tôn Lý Nhật Quang là “Thượng Thượng Thượng Đẳng thần”.

Câu đối tại đền Quả khái quát được công trạng của ông:

Hiển hách thần linh, hương khói miếu đền lưu vạn đại,
Lừng danh tông tộc, núi sông ghi nhớ đến nghìn năm.

Ông được nhân dân vùng Nghệ Tĩnh tôn làm bậc Thánh và lập đền thờ phụng tại nhiều nơi.

Canh hoa trang

Ông Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn Xí

Sự tích được lưu truyền nhiều nhất là Ông Mười giáng thể làm Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà).

Tao Hinh Nguyen Xi

Nguyễn Xí (1396-1465) là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, gốc người làng Cương Giản, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên của ông còn được đặt cho một số con đường ở thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác.

Ông nội Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp, cha là Nguyễn Hội. Nguyễn Hợp dời nhà đến sống tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Tại đây Nguyễn Hợp đã cùng Nguyễn Hội khai dân lập ấp, mở mang nghề làm muối. Nguyễn Hội sinh hai con trai: Nguyễn Biện và Nguyễn Xí. Cha con Nguyễn Hội và Nguyễn Biện thường chở muối ra bán ở vùng Lương Giang, huyện Thiệu Hoá – Thanh Hoá, do đó rất thân quen với Lê Lợi khi đó là phụ đạo ở Lam Sơn.

Năm lên 9 tuổi (1405), Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Cùng năm ấy cha ông bị hổ vồ chết tại quê nhà Thượng Xá, ông theo anh đến làm người nhà Lê Lợi. Khi hơi lớn, Nguyễn Xi đã tỏ ra vũ dũng hơn người, được Lê Lợi quý như con cháu trong nhà.

Lê Lợi sai ông nuôi một đàn chó săn 100 con. Ông chia cơm, dùng hiệu chuông dạy chó rất tài, cả đàn răm rắp nghe theo lệnh. Lê Lợi cho rằng ông có tài làm tướng nên sai ông quản đội Thiết đột thứ nhất.

Nguyen Xi huan luyen cho

Năm 1418, Lê Lợi xưng Bình Định vương phát động khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Xí cùng tham gia, lúc đó ông 22 tuổi. Ông thường theo hầu hạ bên Lê Lợi những lúc hiểm nghèo ở núi Chí Linh.

Ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Dần (6/1/1423), quân Minh do Mã Kỳ chỉ huy từ hai phía đánh vào Quan Du (Quan Hoa, Thanh Hoả) nghĩa quân của Lê Lợi phải rút ra Sách Khôi (Nho Quan, Ninh Bình). Một tuần sau quân giặc lại huy động một lực lượng lớn, từ thành Đông Quan đến bao vây nghĩa quân ở Sách Khôi. Lê Lợi nhận định: “Giặc bốn mặt bủa vây – đây là nơi mà binh pháp gọi là đất chết (tử địa), đánh nhanh thì sống, không đánh nhanh thì chết”. Lê Lợi động viên quân sĩ liều chết phá vây, tìm cách thoát khỏi đất chết. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Xí và các tướng Phạm Vấn, Lê Triệu, Lê Hào, Lê Lĩnh, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Trị, nghĩa quân đã đánh một trận hết sức ngoan cường, đẩy lùi cuộc vây quét của giặc Minh. Nghĩa quân đã giết chết tả tham tướng Phùng Quý và hơn nghìn tên địch, bắt hơn 100 con ngựa. Trận Sách Khôi là một trận đánh oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Xí là người có công lớn trong trận đánh này và lúc đó ông mới 26 tuổi.

Tháng 8 năm 1426, sau khi làm chủ từ Thanh Hoá đến Thuận Hoá, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cảnh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.

Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bi hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan (Thăng Long, Hà Nội).

Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang, Vua Minh lại sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chinh, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xi.

Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, ông biết Thông định chia dường, hẹn nhau khi pháo nổ thì quân mặt trước mặt sau cùng đánh úp Lê Triện. Ông và Đinh Lễ bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động, rồi đốt pháo giả làm hiệu cho quân Minh tiến vào. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Lê Lợi được tin thắng trận liền tiến đại quân ra bắc, vây thành Đông Quan. Nguyễn Xí được lệnh cùng Đinh Lễ mang quân vây phía nam thành.

Trong những năm hoạt động trên quê hương xứ Nghệ, trận đánh lớn mà Nguyễn Xí tham gia là trận Khả Lưu – Bồ Ải đầu năm 1425. Trong trận đánh này, nghĩa quân đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng trong sinh lực địch, giết chết tướng tiên phong là đô tỷ Hoàng Thành, bắt sống đô ty Chu Kiệt và trên 1.000 tù binh. Sau trận thắng ấy, nghĩa quân bắt đầu vây hãm thành Nghệ An và cùng với nhân dân nhanh chóng giải phóng các châu huyện, biến phủ Nghệ An thành đất đứng chân của cuộc khởi nghĩa. Từ căn cứ địa Nghệ An, nghĩa quân tiến ra giải phóng Diễn Châu, Thanh Hóa, tiến vào giải phóng phủ Tân Bình, Thuận Hoá, làm chủ một vùng rộng lớn từ đèo Tam Điệp đến đèo Hải Vân. Đến cuối năm 1425, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc sâu rộng.

Tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu mở cuộc tấn công ra các lộ phía Bắc, đưa cuộc chiến tranh giải phóng lên quy mô toàn quốc và giành thắng lợi quyết định.

Giai đoạn chiến dịch lớn sau đó mang ý nghĩa chiến dịch trọng yếu đưa đến thắẳng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh yêu nước. Đó là các chiến dịch Tốt Động – Chúc Động đầu tháng 11/1426, chiến dịch vây hãm và dụ hàng thành Đông Quan từ 22/11/1426 – 10/12/1427. Trong ba chiến dịch lớn đó, Nguyễn Xí đều có mặt và đã góp phần tạo nên thắng lợi chung của quân dân ta. Có thể nói đây là giai đoạn thành công và cống hiến nhiều nhất của Nguyễn Xí, là đỉnh cao trong sự nghiệp chống quân Minh xâm lược.

Tháng 2 năm 1427, tướng Minh là Phương Chính đánh úp Lê Triện ở Từ Liêm, Triện bị tử trận. Tháng 3, chủ tưởng của giặc Minh là Vương Thông, thân dẫn một đạo binh tinh nhuệ, từ trong toà thành Đông Quan đang bị quân ta bao vây, nống ra tập kích vào doanh trại Tây Phù Liệt (Ngũ Hiệp – Thanh Trì) của nghĩa quân Lam Sơn trên vành đai bao vây phía nam. Tướng Nguyễn Xí cùng tướng Đinh Lễ, được lệnh dẫn hơn 500 quân Thiết Đột, kéo nhanh đến tiếp ứng. Vương Thông đang chưa đánh nổi Tây Phù Liệt, thấy bên ta có viện binh, vội thu quân chạy lộn về thành. Đang đà đánh hăng, Nguyễn Xí và Đinh Lễ lập tức thúc voi trận, dẫn đầu nghĩa quân, đuổi theo. Đến địa phận Mi Động (nay là phường Mai Động, quận Hai Bà Trưng, khoảng chỗ bây giờ vẫn còn địa danh: Đống Cầu Voi), kẻ địch thấy nhóm quân truy sát của ta quả là chỉ có thưa ít người, bèn quay lại, dùng số đông áp đảo, vây đánh. Trận chiến không cân sức diễn ra ngay trên cảnh đồng lầy. Voi trận xoay sở giữa bùn nước rất khó khăn, lại thêm quân địch bắn tên, phóng giáo như mưa, cả Nguyễn Xí lẫn Đinh Lễ đều bị rơi khỏi bành voi. Giặc ủa ngay tới, bắt sống.
Sau đó, tin dữ báo về quân doanh Bồ Đề (Gia Lâm) của chủ tướng nghĩa quân Lam Sơn, Bình Định vương Lê Lợi: tướng Đinh Lễ đã bị giặc Minh sát hại. Còn tướng Nguyễn Xí thì không rõ số phận ra sao… Liền đấy, mấy đêm ròng, trời đổ mưa tầm tã. Giữa một đêm mưa to gió lớn như thế, bỗng lại có tin: tướng Nguyễn Xí đã trở về đến quân doanh. Thì ra, bị giặc giam trong ngục kin, Nguyễn Xí đã thừa lúc gió mưa tối trời trốn thoát. Bình Định vương Lê Lợi cả mừng, vừa vỗ án, vừa thốt lên những lời tự đáy lòng: “Sống lại! Thật là sống lại!”

Từ buổi “sống lại” ấy, vị tướng đã một lần sống chết gắn bỏó với thành đô Đông Kinh ấy, còn tiếp tục lập công đánh giặc – đặc biệt là ở trận Xương Giang (Bắc Giang), sát cánh cùng các tướng Lê Sát, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chủ với lực lượng 3.000 quân Thiết Đột cùng 4 thớt voi dưới cờ, bắt được Hoàng Phúc, Thôi Tụ là đạo viện binh sót lại sau khi Liễu Thăng bị chém, kết thúc vẻ vang chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang vào cuối năm 1427 – quét sạch giặc Minh xâm lược khỏi bờ cõi. Đó là trận thắng lợi kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn.

Mùa xuân Mậu Thân (1428) đại thắng, Lê Lợi lên ngôi Thuận Thiên hoàng đế. Theo vua Thái Tổ nhà Lê tiến nhập kinh đô giải phóng, tướng Nguyễn Xí một lúc được nhận: “quốc tính họ Lê, danh hiệu “Khai quốc công thần”, phong chức Long hổ tướng quân Suy trung bảo chính công thần, đồng thời: chính thức sống và làm quan ở giữa đô thành Đông Kinh.

Năm 1429, khi khắc biển công thần, Nguyễn Xí được xếp hàng thứ 5, được phong làm huyện hầu.

Năm 1433, Lê Thái Tổ băng hà, ông cùng với quan Đại tư đồ Lê Sát – đứng đầu nhóm đại thần nhận ủy thác phò tá thái tử Lê Nguyên Long khi ấy 11 tuổi lên ngôi – Nguyễn Xí trở thành phụ nhiếp chính triều đình, và từ năm 1437 làm quan Tham tri chính sự của vua trẻ Thái Tông nhà Lê ở Đông Kinh. Trong cuộc khủng hoảng triều chính những năm cuối thời Lê Thái Tông, các đại thần tranh giành, hãm hại lẫn nhau, Nguyễn Xí may mắn được yên lành, nên khi vua Thái Tông mất bất đắc kỳ tử năm 1442 ở “Vụ án Lệ Chi Viên”, để lại ngai vàng cho hoàng thái tử Lê Bang Cơ mới chưa đầy 2 tuổi, thì người được nhận di chiếu, ủy thác việc phò ấu chúa kể vị ngôi vua – trở thành hoàng đế Lê Nhân Tông – chính là Nguyễn Xí, cùng với Thiếu bảo, Tham tri chính sự Trịnh Khả, Nhập nội Đại đô đốc Đinh Liệt.

Năm 1437 đời Lê Thái Tông, ông làm chức quan chính sự kiêm Tri từ tụng.

Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, ông cùng Trịnh Khả, Lê Thụ nhận di chiếu phò vua Lê Nhân Tông.

Năm 1445, vua Nhân Tông còn nhỏ, Nguyễn Thái hậu nhiếp chính, ông làm Nhập nội đô đốc, nhận lệnh cùng Lê Thận mang quân đi đánh Chiêm Thành, nhưng chưa đi thì bị quyền thần tố cáo tội lỗi nên bị bãi chức. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép việc năm 1445: “Nhà vua còn nhỏ tuổi, hoàng thái hậu coi giữ triều chính, cất nhắc những người thân thích họ hàng lên làm việc. Vì thấy Nguyễn Xí không ăn cánh với mình, nên ghét bỏ ông. Bấy giờ cỏ việc đi đánh Chiêm Thành. Xí đã vâng lĩnh mệnh lệnh, nhưng chưa đi, bị kẻ quyền thần tố cáo, buộc vào tội chết”. Rất may là ngay khi ấy: “Triều đình cho rằng Xí là bậc kỳ cựu, có công lao, nên chiếu cố theo bát nghị trong luật lệ”. Vì thế, Nguyễn Xí đã chỉ bị cách chức Nhập nội Đô đốc (hàm chánh nhị phẩm) đuổi về quê quán Thượng Xá – Chân Phúc (nay là Nghi Hợp – Nghi Lộc – Nghệ An), tạm mất quyền làm “người Đông Kinh” trong 3 năm. Năm 1448 Nguyễn Xí được phục hồi chức thiếu bảo.

Đến 1448, tình hình triều chính dần dần ổn định hơn, mà các bậc công, cựu đại thần thì cũng ngày càng thưa vắng, cho nên, giữa cung đình Đông Kinh, lại thấy Nguyễn Xí xuất hiện. Và còn với cả tư thế đĩnh đạc hơn trước: được dự vào hàng “Tam Thiếu”, phụ trách chính quyền cấp cao, với chức vụ: Thiếu bảo, Tri quân dân sự (hàm tòng nhất phẩm).

Trải tiếp mười năm phục vụ triều vua Lê Nhân Tông ở kinh đô, Nguyễn Xí đã được vinh thăng tới chức Thái bảo, dự vào hàng “Tam Thái” (hàm chánh nhất phẩm), thì bất ngờ xảy ra vụ “đảo chính cung đình” trọng đại: Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết em trai 19 tuổi – chính là hoàng đế Lê Nhân Tông – để cướp ngôi,

Sự biến xảy ra vào một đêm tháng mười năm Kỷ Mão (1459), anh Nhân Tông là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết vua lên ngôi, đặt niên hiệu Thiên Hưng. Từ đấy cho đến tháng sáu năm Canh Thìn (1460) là 8 tháng tang tóc và bị thương của triều đình Đông Kinh. Ngụy vương và loạn thần thì đắc chí, còn các trung thần nghĩa sĩ thì nấu mình, ẩn nhẫn, lo và chờ dịp khôi phục quốc thống. Thái bảo Nguyễn Xí ở trong số đó. Ông xin nghỉ việc quan, lấy cớ già lão đau mắt đến mù, ở yên trong dinh. Nhưng bọn phản thần không lấy thế làm yên, ra sức rình mò, kiểm soát, khiển bậc tôi trung phải rất vất vả đối phó. Sự tích dòng họ Nguyễn ở Nghi Hợp (Nghi Lộc – Nghệ An) kể rằng: Có lần bọn phản tặc đã dùng đến cách vô cùng độc ác để thử xem có phải Nguyễn Xí mù thật hay không. Chúng chờ lúc vị lão thần sắp bước chân qua bậc cửa, thì lén đem đặt đứa con nhỏ – chưa đầy một tuổi – của ông ngay dưới thềm. Nguyễn Xí biết rõ, nhưng đành cắn răng dẫm chết con, để chúng tin chắc là mình thật sự bị mù!

Nhờ giỏi ngụy trang như thế, mà Nguyễn Xí trở thành được người đứng đầu nhóm thần nghĩa sĩ, cẩn trọng bí mật soạn sửa cuộc “phản đảo chính” diệt trừ kẻ tiếm trung ngôi Lê Nghi Dân và bè lũ vây cánh, đứng đầu là các tên Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng… Các đại thần Đỗ Bí, Lê Thụ, Lê Ngang mưu lật đổ vua Thiên Hưng bị bại lộ đều bị giết. Nguyễn Xí bàn mưu với Lê Lăng (con Lê Triện), Lê Niệm (cháu nội Lê Lai) lật đổ Nghi Dân lần nữa. Và thời cơ đã đến: “Ngày 6 tháng sáu (năm 1460) – Khâm định Việt sử thông giảm cương mục chép: – các đại thần là Thái bảo Lê (Nguyễn) Xí và Lê (Đinh) Liệt, Nhập nội Kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự Lê Lăng, Nhập nội Đại hành khiến Lê Vĩnh Trường, Xa kỵ vệ đồng Tổng tri Lê Niệm, Ngự tiền hậu quân Tổng trị Lê Nhân Thuận, bàn định với nhau rằng: “Lạng Sơn vương Nghi Dân câu kết với tên Đồn, tên Ban, dám làm việc giết vua cướp ngôi, tức là hạng ác nghịch nhất nước. Chúng ta,mang danh nghĩa là những bầy tôi có công lao với kẻ giết vua cướp ngôi, thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng được nữa”. Sau khi ở trong triều lui ra, các đại thần đều ngồi cả tại nhà Nghị sự. Lê (Nguyễn) Xí đứng đầu, xướng xuất việc nghĩa, trước hết giết tên Đồn, tên Ban ở ngay trước nhà Nghị sự, sau đóng các cửa thành lại, rồi sai Nhân Thuận thống lĩnh cấm binh, bắt đảng phản nghịch là lũ Trần Lăng hơn một trăm người, đều giết hết. Các đại thần định nghị: truất Nghi Dân làm Lệ Đắc hầu, bắt phải thắt cổ tự tử.

Sau đó thì đến việc lập lại trật tự triều chính. Vẫn có Nguyễn Xí là người đứngđầu, các đại thần đã tìm được hoàng tử Lê Tư Thành trong hoàng tộc nhà Lê và quyết định đưa lên ngôi. Ngày thứ ba – tính từ hôm nổ ra cuộc diệt trừ nghịch đảng – mồng 8 tháng sáu (1460), Lê Tư Thành được làm lễ đăng quang ở điện Tường Quang trong hoàng thành Đông Kinh, chính thức ban bổ niên hiệu: Quang Thuận – niên hiệu sẽ còn được dùng trong 10 năm đầu của đại cuộc trị vì 38 năm, với nhiều thành công, của vị hoàng đế tài danh: Lê Thánh Tông.

Dễ hiểu vì sao, sau đấy và từ đấy, Nguyễn Xí được hoàng đế Lê Thánh Tông hết sức nể vì, tưởng thưởng. Trong tháng sáu năm 1460, từ vị trí là Thái bảo, Nguyễn Xí đã được lên hàng Thái phó đứng thứ hai trong “Tam Thái”, kèm hai chữ tin cẩn: “Nhập nội” và giữ chức Bình chương quân quốc trọng sự (tức Tể tưởng), với tước phong Ả quận hầu. Đến tháng Mười năm ấy chính thức luận công khen thưởng, tước hiệu của Nguyễn Xí đã được vinh thăng thành Qùy Quận công (tức: Quận công phủ Quỳ Châu). Ngự chế của nhà vua ban cho Nguyễn Xí, dệt gấm thêu hoa chẳng những công lao mà còn cả tính cách người lập công: “Xướng đại nghĩa để trừ kẻ hung tàn, ngươi đã có công như công yên được nhà Hán; lấy ngôi thượng công mà ban phong thưởng ngươi đáng được cải vinh dự cắt đất phân phong… Giữ mình có đạo, hồn nhiên như viên ngọc không lộ sáng, nghiêm sắc mặt ở triều, lẫm liệt như thanh kiếm mới tuổi… Lúc nước có biến phi thường, chỉ mình ngươi lo cứu vãn. Người thực là bề tôi trung ái của ta…”.

Được thừa nhận là “bề tôi trung ái”, không chỉ của Lê Thánh Tông, mà còn trải liền bốn đời hoàng đế triều đại Lê sơ: từ Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông đến Thánh Tông, trong vòng hơn 30 năm làm người Đông Kinh, như Nguyễn Xí, quả là không dễ dàng. Những danh thần cũng từng là “bề tôi trung ái” và “bằng vai phải lứa” với Nguyễn Xí, thì chẳng hạn như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chủ… ngay từ đời Thái Tổ đã phải “ngậm cười nơi chín suối”. Các Đại tư đồ, Đại đô đốc như Lê cũng bị nạn “tru di tam tộc” trong buổi giao thời Thái Tông – Nhân Tông. Và chỉ mới đây thôi, không khéo trong việc mưu đồ trừ diệt phe cánh Lê Nghi Dân, nhóm các đại thần Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang, Lê Thụ, cũng đã bị sát hại!

Càng không còn mấy ai nữa, từng cùng thời với Nguyễn Xí, từ thuở “nằm gai nếm mật”, “vào sinh ra tử” trong suốt 10 năm đương đầu với lũ quan quân nhà Minh “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tai vạ” hết lâm cảnh: “Linh Sơn lương cạn mấy tuần, Khôi Huyện quân không một lữ”, lại xông pha: “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”, đặc biệt là những dũng tướng đã cùng Nguyễn Xí đánh trận: “Ninh Kiều máu chảy thành sông, Tốt Động thủy phơi đầy nội”…

Năm 1462, con Nguyễn Xí là Nguyễn Sư Hồi không hợp cánh với một số đại thần nên làm thơ vứt ra đường để vu cho họ làm loạn nhưng việc bị phát giác. Vua Thánh Tông nể công lao của ông nên không trị tội Sư Hồi.

Năm đó ông được phong chức Nhập nội hữu tướng quốc. Năm 1463 lại được phong chức thái uy.

Tương truyền khi trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế.

Năm 1464, Nguyễn Xí ốm nặng, Lê Thánh Tông sai sứ mang một đạo dụ đến nhà riêng thăm hỏi và biểu 1.000 quan tiền để thuốc thang. Trong đạo dụ có đoạn: “Công của khanh, trẫm chưa báo đền mà bệnh của khanh sao đã trầm trọng. Nghĩ đến nước, cơm cháo khanh phải cố ăn. Lo cho trẫm, thuốc thang khanh phải cố chữa”.

Tháng 10 năm 1465, Nguyễn Xí qua đời, thọ 69 tuổi, Lê Thánh Tông rất thương tiếc cho đưa linh cữu về quê an táng, truy tặng hàm Thái sư Cương quốc công, đặt cho tên thụy (tên đẹp) là Nghĩa Vũ và sai lập đền thờ tại Thượng Xá. Đền thờ Nguyễn Xí được xây dựng từ năm Quang Thuận thứ 8 đời Lê (1467). Qua bao thăng trầm của thời gian và đạn bom của Pháp và Mỹ, đền thờ ngài vẫn uy nghi tồn tại và là di tích lịch sử của quốc gia, cách Cửa Lò khoảng hơn 2km. Theo Đại Việt thông sử, ông có 16 người con trai và 8 người con gái. Con cháu Nguyễn Xí về sau theo giúp nhà Lê trung hưng.

Ban tho Nguyen Xi

Nhân dân suy tôn Nguyễn Xí là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phủ văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).

Canh hoa trang

Ông Hoàng Mười giáng thế làm Lê Khôi

Một trong những sự tích khác được lưu truyền là Ông Mười giáng thể làm Lê Khôi. Lê Khôi (? – 1445) là một trong những tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và là công thần khai quốc nhà Lê sơ,

Lê Khôi người làng Lam Sơn (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Ông là con trai Lê Trừ – anh thứ hai của Lê Lợi, tức là cháu gọi Lê Lợi bằng chú ruột. Hiện người ta vẫn chưa rõ ông sinh vào năm nào. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu và lập được rất nhiều công lao.

Năm 1427, ông cùng với nghĩa quân lập nên trận Khả Lưu. Lúc đó, tuy chỉ là một vị tướng nhỏ nhưng đã được mô tả như sau: “Mình đeo bên trái một túi mũi tên, bên phải cũng một túi mũi tên, theo Vua ra trận. Trong trận Khả Lưu, ông cùng bọn Lê Sát xông lên trước, vây đánh và phá tan quân Minh, bắt sống được Đo Đốc giặc là Hoàng Thành, lại còn bắt được sĩ tốt của chúng nhiều không kể hết.”

Năm 1427, ông hợp lực cùng Phạm Vấn chỉ huy một cánh quân, góp phần vào chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang quyết định chiến cục, kết thúc thắng lợi khởi nghĩa Lam Sơn. Ông cùng Phạm Vẫn đem hơn hai ngàn quân đi trợ chiến cho Lê Sát, đánh tan và bắt sống bọn tướng giặc là Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng mấy vạn tên giặc, quét sạch quân Ngô, và khôi phục Đông Đô

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, Lê Khôi được ban chức Kì Lân Hổ Vệ Tướng Quân, quyền Hành Tổng Quản, hàm Nhập Nội Thiếu Úy, sau thăng hàm Tư Mã, được đem Kim Phù.

Năm 1430, Lê Khôi giữ chức trấn thủ Hóa Châu, vùng giáp với Chiêm Thành, giúp vùng này yên ổn, ấm no. Cùng năm này, ông đã đem quân tiếp ứng cho vua Lê Thái Tổ đi dẹp loạn Bế Khắc Thiệu ở Thái Nguyên.

Năm 1437, Lê Khôi được phong làm Nhập nội tư mã, Tham trị chính sự, kiểm quản Tây Đạo.

Năm 1440, ông được thăng làm Nhập Nội Đô đốc. Sau, chưa rõ vì lý do gì, ông bị giáng chức.

Năm 1443, ông được làm Nhập Nội Thiếu Úy, trấn thủ Nghệ An.

Năm 1445, thời Lê Nhân Tông, Lê Khôi đem quân tiếp ứng, giúp dẹp tan quân Chiêm Thành. Lê Khôi bị đau và mất ngày 3/5/1446 tại Núi Nam giới huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Đại Nam Nhất thống chi viết về ông như sau: “Ông là người độ lượng, nhân hậu, nhã nhặn, ít nói ít cười, từng theo Vua Lê Thái Tổ đi đánh dẹp lập được nhiều công lao”.

Canh hoa trang

Ông Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn Duy Lạc

Một trong những sự tích khác được lưu truyền là Ông Mười giáng thể làm Nguyễn Duy Lạc, danh tướng thời nhà Lê có đền thờ tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông được nhân thế hoá, phàm tục hoá thành Thái uý Vĩ quốc công, trở thành vị thần chính ở đền Xuân Am hay đền Đức Thánh Hoàng Mười, còn gọi là Mỏ Hạc Linh Từ.

Ngài là một vị tướng tài có công lớn trong cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, hy sinh trong trận Âm Công đánh vào thành Lục Niên. Âm Công là một trận nghi binh làm voi giả, chiến thuyền giả. Ngài kéo quân đánh tập hậu, tả xung hữu đột làm cho quân Minh kinh hồn bạt vía. Ngài đã bị thương nặng, chỉ kịp phi ngựa về đến quê nhà thì mất. Triều đình lấy làm thương tiếc nên lấy đất Âm Công – quê hương Ngài để tưởng nhớ công ơn. Nhà Vua ban tặng cho Ngài 4 câu thơ:

Đế thích long chương khai thái vận
Thiên sinh thần võ dực hồng đồ
Sinh bất hư sinh, sinh nghĩa đảm
Từ thuỷ vô tử, tử trung can.

Dịch là:

Vua tặng sắc phong mừng vận đẹp
Trời sinh tướng giỏi giúp non sông
Sống chẳng sống thừa lòng nghĩa dũng
Chết mà không chết dạ can trường.

Chim Phượng 2

Quan điểm về sự giáng thế của ông Hoàng Mười

Có rất nhiều các sự tích cũng như quan điểm khác nhau về sự giáng thế của ông Hoàng Mười. Theo quan điểm của tác giả thì ông Hoàng Mười là hình ảnh hiện thân của nhiều thế hệ các vị anh hùng tài ba lỗi lạc khác nhau, là những vị có công với dân với nước, như Lý Nhật Quang, Nguyễn Xí, Lê Khôi, Nguyễn Duy Lạc, v.v…

Nếu xét về tính logic chặt chẽ thì có lẽ lần giáng thế của ông Hoàng Mười làm Nguyễn Xí sẽ là có tính logic chặt chẽ nhất vì những lý do như sau:

Thứ nhất: Nguyễn Xí sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, khác với hầu hết những vị khác là không được sinh ra trên mảnh đất Nghệ An. Chẳng hạn Lý Nhật Quang thì được sinh ra ở chốn kinh đô, nhưng sau này được giao quản lý vùng đất Hà Tĩnh và Nghệ An. Còn Lê Khôi được sinh ra tại mảnh đất Lam Sơn (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).

Thứ hai: Nguyễn Xí và Lý Nhật Quang cùng mất trên chính mảnh đất Nghệ An, khác với hầu hết những vị anh hùng khác là không mất trên mảnh đất Nghệ An mà mất ở những nơi khác. Chẳng hạn Lê Khôi bị mất tại Núi Nam giới huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Thứ ba: Nguyễn Xí mất vào ngày 30 tháng 10 năm Ất Dậu (18/11/1465) và đã được sử sách ghi lại, tức là ngài mất trong tháng 10, và tiệc của ông Hoàng Mười cũng nằm trong tháng 10. Trong khi đó những vị khác đều mất vào những ngày không thuộc tháng 10. Chẳng hạn như Lê Khôi bị mất ngày 3/5/1446, còn Lý Nhật Quang thì bị mất vào ngày 17/8/1057.

Những chi tiết trên cho thấy quan điểm ông Hoàng Mười giáng thế làm Nguyễn Xí có tính logic chặt chẽ nhất. Tuy nhiên tác giả vẫn ủng hộ quan điểm rằng ông Hoàng Mười là hiện thân của nhiều vị tướng tài ba lỗi lạc khác nhau, chứ không chỉ bị bó hẹp trong duy nhất lần giáng thể làm Nguyễn Xí.

Canh hoa trang

Hầu giá Ông Hoàng Mười

Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thì phủ văn chương).

Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000₫ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông.

Khi ông ngự vui, thường có dâng đại chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.

Hau gia Ong Hoang Muoi

Căn ông Mười và các dấu hiệu nhận biết

Căn Ông Hoàng Mười là gì?

Theo quan điểm dân gian, số mệnh của mỗi con người đều do thiên cơ định sẵn, do nghiệp duyên kiếp trước mà thành, nghiệp khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau. Và những người kiếp này được chọn làm lính Ông Mười đều là những người có duyên có nợ được Ngài cứu giúp từ kiếp trước, đến kiếp này được chọn để trả ơn Thánh.

Nếu là người có căn duyên, nhất định đến một thời điểm nào đó sẽ khởi duyên được Thánh dẫn đường chỉ lối để tìm đến chân gốc bản mệnh, báo đáp ân duyên.

Các dấu hiệu nhận biết có Căn Ông Hoàng Mười

Rất nhiều người trong chúng ta khi đang đọc bài viết này đều đang tự hỏi “vậy mình có hợp duyên căn với Thánh Hoàng Mười hay không?”. Câu trả lời sẽ dựa trên một vài dấu hiệu cơ bản sau:

– Dấu hiệu nhận biết đầu tiên có lẽ là đến từ giấc mơ. Bởi cơ thể ở trạng thái khi mơ có nghĩa là ta đang chạm về một phần tiềm thức. Tiềm thức ấy có thể ở hiện tại hoặc trong quá khứ.

– Họ là người có chí tiến thủ và cầu toàn trong công việc. Tâm tư đa sầu cảm, không thích tranh đấu nhưng một khi đã tranh đấu lại vô cùng có sách lược.

– Người có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười tính thường khoan thai, nho nhã, khiêm cung. Khi chưa biết đến Thánh Hoàng, họ thường gặp những trắc trở trong con đường công danh, hoặc trong cuộc sống gặp những khó khăn về công việc giấy tờ. Hoặc cũng có khi khó “chạy cửa sau” trong tất cả công chuyện chạy chức chạy quyền. Bởi những người hợp duyên Thánh Hoàng thì cương trực cương trung lấy làm trọng, do vậy những điều gì đi trái lại với quy luật ấy đều bị ngài ngăn cản

– Một số quan điểm còn cho rằng Người có căn Ông Hoàng Mười thường là người hào hoa phong nhã, tâm hồn bay bổng, giỏi thi phú văn chương, có đường công danh rộng mở, tiền tài xán lạn, thường đỗ đạt làm quan to chức trọng có uy quyền.

Như vậy, dựa vào âm phúc của mỗi người với Chư Thánh khác nhau mà có những cảm nhận về căn duyên với Thánh ông Hoàng Mười khác nhau. Tuỳ nhân duyên cũng được ngộ duyên trong hoàn cảnh không giống nhau. Nhưng hơn cả vẫn là truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây.

Canh hoa trang

Các bản Văn Ông Hoàng Mười

Theo các tư liệu được tìm thấy, Tín Ngưỡng Việt đã sưu tầm được 1 bản văn Ông Hoàng Mười và các đoạn Thơ, Phú cùng những đoạn Cải Lương…

Trích đoạn

Thanh xuân một đấng anh hùng.
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam.
Hai vai nặng gánh cương thường,
Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo.

Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu,
Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi.
Khi Bích động lúc Bồng lai,
Non nhân, nước trí mọi nơi ra vào

Xem đầy đủ bản văn Ông Hoàng Mười

Canh hoa trang

Đền thờ Ông Hoàng Mười

Ngoài việc được thờ tại ban Tứ Phủ Thánh Hoàng thì Ông Hoàng Mười được thờ tại rất nhiều đền – phủ từ Bắc tới Nam. Tuy nhiên, nhắc đến Đền Ông Mười thì đầu tiên phải nói đến Đền Củi (Hà Tĩnh), Mỏ Hạc Linh Từ (Nghệ An) và Đền Dinh Đô Ông Hoàng Mười (Hà Tĩnh)

Den tho Ong Hoang Muoi

Đền Chợ Củi

Đền Chợ Củi, còn gọi là đền Hoàng Mười ở xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh nổi tiếng linh thiêng. Nơi đây hằng năm thu hút đông đảo khách thập hương vãn cảnh, cầu phúc lộc.

Đền Chợ Củi chính là nơi năm xưa di quan ông về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Soi mình bên dòng sông Lam hiền hòa, tựa lưng vào dãy núi Hồng Lĩnh, phong cảnh đền Chợ Củi hết sức hữu tình, thơ mộng. Bên cạnh sự linh thiêng, trang nghiêm, đền Chợ Củi mang trong mình một nét đẹp văn hóa riêng.

Mỏ Hạc Linh Từ – Nghệ An

Ngôi đền được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1ha ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay, đền có 3 toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.

Lăng mộ Ông Hoàng Mười – Nghệ An

Mộ đức thánh Hoàng Mười cũng nằm trong khu di tích Mỏ Hạc Linh Từ ở Xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên – Nghệ An. Tương truyền đây chính là lăng mộ của ông Nguyễn Duy Lạc – một hiện thân của Thánh Hoàng Mười. Trên án thờ có đắp thanh gươm và cây bút lớn vươn thẳng lên trời xanh.

Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười – Hà Tĩnh

Ngày 23/11/2014, Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười đã chính thức khánh thành tại phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Đền Cả Dinh Đô Quan Hoàng Mười trong những thập niên qua đã bị phế tích. Theo tài liệu được cơ quan chuyên môn cấp trên cung cấp và những ý kiến của các cụ cao tuổi trong địa phương kể lại, Đền Cả Dinh Đô Quan Hoàng Mười được xây dựng vào khoảng năm 1060 (thời Nhà Lý). Đền tọa lạc vùng ngoài đê La Giang, tại ngã ba giao nhau giữa Kênh nhà Lê, Sông La và Sông Lam. Đền còn có tên gọi của địa danh đó là “Mỏ Hạc Linh Từ”.

Chim Phượng 2

Các câu hỏi thường gặp về Ông Hoàng Mười

Ông Hoàng Mười là ai?

Ông Hoàng Mười là vị thánh Hoàng nổi danh tai hoa, sang trọng, văn võ kiêm toàn. Huyền tích về Ông Mười trong dân gian có nhiều, tương tuyền ông quê Nghệ An, có nhiều công lao vào dân, với nước.

Đền Ông Hoàng Mười thờ ai?

Đền Ông Hoàng Mười thờ chính Quan Hoàng Mười. Nơi đây còn thờ các vị Phúc Thần như: Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu và cácvị Thánh Tứ Phủ, Song Đồng Ngọc Nữ, Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung,…

Người có căn Ông Hoàng Mười?

Người có căn Ông Hoàng Mười thường là người hào hoa phong nhã, tâm hồn bay bổng, giỏi thi phú văn chương, có đường công danh rộng mở, tiền tài xán lạn, thường đỗ đạt làm quan to chức trọng có uy quyền.

Canh hoa trang

Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Ông Hoàng Mười.

Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:

  • Sách Tín Ngưỡng Tam Tứ Phủ và Thờ Thánh ở Việt Nam – Biên soạn TS Bùi Hùng Thắng
  • Đồng Thầy Hoàng Tiến Hưng

Xin trân trọng cám ơn!

Hoa sen

Tham khảo thêm

Xem thêm thần tích Thập Vị Ông Hoàng