Đình Chèm (Bắc Từ Liêm, Hà Nội)

Đình Chèm được coi là một trong những ngôi đình cổ nhất tại Việt Nam, có niên đại hơn 2.000 năm. Suốt hàng ngàn năm qua, nó đã trở thành nơi thờ cúng và tín ngưỡng của ba làng: Thụy Phương (Chèm), Hoàng Xá, và Hoàng Liên (Liên Mạc) trong xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đình dành để thờ đức Thánh làng Chèm, còn được gọi là Lý Thân (hay còn có tên khác là Lý Ông Trọng hoặc Đức Thánh Chèm).

Chim Phượng 2

Truyền thuyết Đức Thánh Chèm

Vào thời Hùng Vương thứ 18, ở xã Thụy Hương (Thụy Phương) thuộc huyện Từ Liêm, Giao Chỉ (nay là Hà Nội), có một cậu bé tên là Lý Thân, hay còn gọi là Lý Ông Trọng. Ông Trọng được miêu tả là một đứa trẻ mạnh mẽ và lớn nhanh, cao đến hai trượng ba thước. Với bản tính cương trực, trung hậu, thương dân nên có lần thấy một tên lính huyện ác ôn đánh đập dân phu dã man, ông đã nổi giận đánh chết tên lính đó và bị triều đình khép tội chết. Nhưng vua thấy ông là người có tài đức, khỏe mạnh nên không nỡ giết.

Duc Thanh Chem

Trong thời nhà Thục, Lý Ông Trọng trở thành một tướng quân xuất sắc, hỗ trợ vua và được cử đi làm sứ giả đến nước Tần. Vua Tần nhận thấy sự khác thường và sức mạnh của Lý Ông Trọng, do đó vua đã bổ nhiệm ông làm Tư lệ Hiệu uý, chỉ huy một đội quân mạnh, gác giữ biên giới phía Tây. Đội quân của ông chiến thắng mọi trận đấu và đạt được nhiều chiến công vang dội, khiến quân địch của Hung Nô không dám tiếp cận. Vua Tần rất vui mừng và đã kết hôn con gái cho ông.

Mặc dù được sống trong sự giàu có và quyền lực của vương quốc, Lý Ông Trọng vẫn không ngừng nhớ về quê hương và mong trở về Âu Lạc (đất nước cũ). Ông đã xin phép vua để trở về quê hương khi đã già yếu. Khi ông không có mặt, quân địch Hung Nô đã xâm phạm lãnh thổ của vương quốc Tần. Vua Tần đã gửi sứ thần đến tìm ông, nhưng không thành công vì ông không muốn rời xa quê hương khi đã già yếu. Vì vậy, vua Thục, An Dương Vương, đã phải nói dối rằng ông đã qua đời. Vua Tần, đau buồn và tiếc nuối, đã cho đúc một tượng Lý Ông Trọng từ đồng rỗng ruột, bên trong tượng chứa nhiều người để làm cho tượng có khả năng di chuyển. Khi đưa tượng ra biên giới, quân địch Hung Nô tưởng rằng Ông Trọng vẫn còn sống và đã bỏ chạy. Sau khi ông qua đời, nhân dân đã xây dựng đền thờ để tôn vinh ông và coi ông như Đức Thánh Chèm.

Canh hoa trang

Kiến trúc Đình Chèm

Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc kỹ thuật nội công ngoại quốc, với độ chắc chắn và công phu. Nghi môn ngoại của đình là một kiểu nghi môn trụ với bốn cột cao to, gần đỉnh trụ có hình lồng đèn được đắp, và cả đỉnh trụ lẫn thân trụ đều được trang trí với tứ linh, tứ quý và các câu đối chữ Hán ca ngợi Đức Thánh Lý Ông Trọng. Nghi môn nội, hay còn được gọi là Tàu tượng, là một kiểu nhà bốn mái, ba gian, hai chái, với mái lợp ngói mũi hài và các góc uốn cong tạo thành hình đầu đao và đắp nổi hình đầu rồng. Nghi môn nội có 3 cửa lớn với cánh gỗ. Đây là nơi đặt tượng thờ ông quản tượng, voi chiến và ngựa chiến của Đức Thánh. Khu vực bia đá, sân đình, tả hữu mạc, phương đình 8 mái và tòa đại bái cùng với hậu cung tạo thành hình dạng chữ “Công”.

Toan Canh Dinh Chem

Khu vực chính của đình Chèm bao gồm tòa tiền tế và tòa đại bái, hai tòa nhà này có cấu trúc giống nhau và được nối với nhau bằng hệ thống xà nách đỡ máng đồng. Mỗi dãy nhà gồm 5 gian, hai chái theo kiểu nhà 4 mái. Nội thất bên trong có 6 hàng chân cột gỗ để đỡ mái, các cột này đặt trên chân tảng đá xanh. Trên những bộ vị ngắn, có các bức cốn chạm hình rồng mây, rồng cuốn thủy, cá hóa rồng và tứ linh, với các đường nét chạm mềm mại, tinh tế, mang phong cách nghệ thuật của thời kỳ Lê cuối – thế kỷ thứ 18. Đây cũng là nơi đặt hương án và các đồ tế quan trọng của đình Chèm, đồng thời là địa điểm diễn ra các nghi lễ quan trọng hàng năm và trong dịp lễ hội.

Hậu cung của đình được xây dựng kề liền với nhà đại bái thông qua một nhà cầu nhỏ ở giữa, khu hậu cung bao gồm 3 dãy nhà nối tiếp nhau, tạo thành cấu trúc kiến trúc theo kiểu chữ “Công”. Nhà bên ngoài và nhà bên trong song song với nhau thông qua nhà ống muống ở giữa. Đây là nơi trang nghiêm nhất trong đình Chèm, đặt long ngai và tượng thờ của Đức Ông, Đức Bà, có chiều cao khoảng 3,2m, hai bên là tượng của 6 người con của Đức Thánh, còn được gọi là Lục vị vương. Trong thánh phả của dân tộc Việt Nam, Lý Ông Trọng đứng thứ ba sau Thánh Tản và Thánh Gióng. Đình làng Chèm có thể là ngôi đình duy nhất ở miền Nam Việt Nam hướng về phương bắc. Có vẻ như đó là cách mà người dân Chèm thể hiện tình cảm với công chúa sống xa xứ nhưng vẫn yêu thương chồng và luôn hướng về quê cha đất tổ.

toa tien te va toa dai bai

Hiện nay, đình Chèm vẫn còn lưu giữ cuốn sách chữ Hán ghi lại các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, cùng với 3 bảng đá, trong đó có một bảng từ thời Lê Cảnh Hưng và 3 bảng từ thời Nguyễn, cùng với 10 tượng thờ, 8 bức hoành phi câu đối và 2 chuông đồng được đúc trong thời kỳ Nguyễn. Điều đặc biệt là hệ thống máng đồng là một di vật độc đáo và hiếm có ở các di tích khác, có niên đại từ thời kỳ Lê, Tây Sơn và Nguyễn.

Các công trình kiến trúc của đình Chèm được xây dựng với cấu trúc chắc chắn và được bố trí một cách hài hòa trong không gian rộng lớn. Những nếp nhà được xây dựng theo trục hoàng đạo Đông Bắc – Tây Nam. Xung quanh các công trình kiến trúc là những cây cổ thụ, với cành lá sum suê, tạo thêm vẻ đẹp cổ kính và trang nghiêm cho ngôi đình đã tồn tại hơn 2.000 năm.

Đình Chèm đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa lớn và mở rộng trong suốt thời gian tồn tại của nó. Đáng chú ý là trong những năm 1920, người dân vùng Chèm đã thực hiện một công việc quan trọng và táo bạo là nâng cả ngôi đình lên cao. Đến ngày nay, tất cả các kiến trúc của đình Chèm vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn, từ bố cục đến kiểu dáng, tạo thành một tổng thể đẹp mắt của những di tích cổ kính, hài hòa trong không gian rộng rãi bên bờ sông Hồng.

Hau Cung Dinh Chem

Vào năm 1990, Đình Chèm đã được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia, khẳng định giá trị văn hóa và lịch sử quan trọng của nó.

Lễ hội Đình Chèm

Hội Chèm diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 của tháng 5 âm lịch, trong đó ngày 15 được coi là ngày hội chính. Tất cả các nghi thức quan trọng của lễ hội được tổ chức tại Đình Chèm. Tuy được gọi là hội Chèm, nhưng thực tế đây không chỉ là hội của làng Chèm mà còn là hội của một cụm các làng ven sông Hồng, bao gồm làng Liên Mạc và làng Hoàng Mạc, tham gia với tư cách là hai làng em.

Một trong những điểm đáng chú ý nhất của lễ hội là lễ rước nước vào sáng ngày 15, khi ba con thuyền rồng đến từ ba làng bơi ra giữa sông Hồng, múc nước từ sông và đổ vào chĩnh rồi thực hiện màn trình diễn quay thuyền ba vòng trước khi bơi về bờ. Sau đó, nước được rước vào Đình Chèm. Đây là dấu hiệu của tín ngưỡng thờ nước trong văn hóa cổ đại. Lễ rước nước cũng đi kèm với nhiều nghi thức cổ truyền đáng để các nhà văn hóa học và dân tộc học quan tâm và nghiên cứu. Cuối cùng, tại lễ hội còn diễn ra cuộc thi thả chim bồ câu, khi các đàn chim bồ câu được thả lên trời, thường bay lên cao hàng ngàn mét và nếu đạt được các quy định quy định, chúng sẽ nhận được giải thưởng.

Le hoi Dinh Chem
Canh hoa trang

Các đình khác tại Bắc Từ Liêm