Bản văn Quan Đệ Ngũ : 5 Lời văn Quan lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
Các bản văn Quan Đệ Ngũ thường được dùng khi thỉnh vào ngày tiệc (14/ và 25/5 âm lịch) hoặc hầu đồng giá Quan lớn Tuần Tranh.
“Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Đao thiêng cứu nước tung hoành là ai?
Sông Tranh cất tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ sáng ngời chiến công”
Mục Lục Bài Viết
Khái quát thần tích Quan Đệ Ngũ
Quan lớn Đệ Ngũ là vị quan thứ 5 trong hàng Ngũ vị Tôn Quan của hệ thống đạo Mẫu Tứ Phủ. Trong dân gian thương lưu truyền câu chuyện Ngài là vị tướng tài trấn giữ vùng bến sông Tranh, lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu.
Sau này do bị hàm oan, Ngài bị đày lên chốn Kỳ cùng ( tỉnh Lạng Sơn) và rồi hóa ở chính nơi đây. Ngài hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ, trừ tà, dẹp hết những hẻ hại nước hại dân, được nhân dân biết ơn lập đền thờ phụng.
Trong thần điện và trong nghi lễ hầu đồng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, Quan lớn Đệ Ngũ thường ngự áo màu lam. Ngài được thờ ở Ban Công đồng trong đền, điện phủ của Tín ngưỡng.
Đền chính thờ Quan lớn Đệ Ngũ là đền Tranh ( đền Ninh Giang), xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương – chính là nơi que nhà cảu ngài; đền Kỳ Cùng phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Ngày tiệc Quan lớn Đệ Ngũ là 14 tháng Hai và 25 tháng Năm (âm lịch) hằng năm.
Tìm hiểu chi tiết hơn về Quan Đệ Ngũ
3 bản văn Quan Đệ Ngũ hay nhất
Các bản văn hay nhất thường dùng:
Bản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 1
Đệ tử tôi khấu đầu củng thủ
Tiến văn chầu đệ ngũ Tuần Tranh
Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Cảnh thiên thai Quan Tuần giá ngự
Các bộ nàng tiên nữ dâng hoa
Ninh Giang chính quán quê nhà
Danh lam cổ tích ngự tòa ngôi cao
Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Cửa sông đâu đó phụng thờ
Kỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần Tranh
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sử
Vốn đặt bầy tự cổ dĩ lai
Có phen chơi chốn thiên đài
Đào, Lan, Quế, Huệ vui vầy xướng ca
Trên bát ngát Long, Xà, Hổ phục
Dưới tam đầu cửu khúc chầu lên
Lân rờn Phượng múa đôi bên
Thỉnh ông Đệ Ngũ ngự trên sập rồng
Sắc vua phong kiêm tri tam giới
Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh
Quan Tuần vạn phép muôn linh
Quyền ông cai quản thiên binh nhà trời
Ngự đồng chơi minh quyền bóng quý
Nương uy trời thuỵ khí đoan trang
Quan Tuần hiển hách uy quang
Ra tay tế độ trần gian được nhờ
Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ
Nương uy trời cứu độ sinh nhân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Thượng đồng ban phép cứu dân trừ tà
Khắp gần xa bách quan đều phục
Ai có lòng hưởng phúc hà sa
Dù ai bệnh hạn không qua
Cầu quan Đệ Ngũ bệnh đà tan không
Nay dốc lòng ơn ông vạn bội
Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha
Hay là cách trở giang hà
Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không
Tiếng nức danh tung hoành dũng lược
Cảnh non bồng nước nhược bồng lai
Khi chơi bạn trúc bạn mai
Bàn loan tiệc ngọc vui vầy sướng ca
Các bộ nàng ra tay bẻ quế
Quan dạo chơi thành thị hồ tiên
Ba nghìn thế giới dư thiên
Tiếng Quan Đệ Ngũ khắp miền đông tây
Uy ra thổi gió thét mây
Phép ông ứng hiện đổ cây tốc nhà
Bốn phương hoà đội ơn đức cả
Ai có lòng hỉ xả từ bi
Phút thôi ông lại biến đi
Cưỡi tướng Bạch Hổ lên chầu thượng thiên
Khi cầm quyền còn đương tra sổ
Hay ông còn đổi sổ cho ai
Thiên binh văn võ gồm tài
Đức ông lịch sự đáng trai anh hùng
Đêm ngày giữ việc thuỷ cung
Đợi lệnh cửu trùng cứu trợ sinh nhân
Ai mà cầu nhân đắc nhân
Cầu phúc đắc phúc bản thân điều hoà
Kiên tri tam giới các toà
Ông về giáng ngự xướng ca điện tiền
Chữ thập biến làm chữ thiên
Phù hộ đệ tử thiên niên hoà hài
Một nguyện giáng phúc trừ tai
Đồng gia nam nữ ai ai thịnh cường
Hai nguyện buôn bán trăm đường
Tiền vàng lưu loát bạc vàng đề đa
Nguyện thứ ba công hầu cập đệ
Hộ tiểu tôi phú quý giầu sang
Bốn nguyện quốc phú dân an
Can qua ninh tỉnh dân an thái bình
Ông về linh giáng điện đình
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.
Bản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 2
Quyết mở đường dân an quôc thái
Dựng cơ đồ vạn đại cao sơn
Nhớ xưa tích cũ nhiệm màu
Quan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinh
Tuổi niên thiếu đao binh yên ngựa
Sống vì đời thác trợ muôn dân
Sinh làm tướng thác làm thần
Dấu thiêng ghi để muôn dân phụng thờ
Gương đã tỏ soi đời càng tỏ
Trấn Ninh Giang vạn cổ anh linh
Bao phen đắp lũy xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Quan Lớn Tuần đánh Đông dẹp Bắc
Đã quyết lòng đánh giặc ghi công
Làm trai đáng mặt anh hùng
Sông Thương đột phá treo cung non Đoài
Gương anh khí sáng ngời muôn thủa
Chí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay nòi giống tiên rồng
Muôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài cao
Thơ:
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi để dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang
Nước sông Tranh đêm ngày vẫn chảy
Sóng tuôn trào cuồn cuộn về đâu
Chúng con nhớ người tráng sĩ lập lên công
Ngàn năm ghi nhớ Quan Tuần tài kiêu
Ngựa chiến xông pha đao thần ra trận
Sinh tử vì đời trung hiếu đạo vua tôi
Bản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 3
Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu
Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Tài cung kiếm sánh cùng võ tử
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông
Chí đã quyết ngoài vòng cương toả
Hay đâu là duyên nợ ba sinh
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thoả lòng tráng sĩ tài danh phỉ nguyền
Thề non nước nên duyên kì ngộ
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên
Tin đâu khẩn cấp ban truyền
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh
Có ngờ đâu đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân
Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân đành nhẹ, nhục vinh lẽ thường
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ cho ai
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn
Kiệt Cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà
Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
Những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
Bản văn Quan lớn Đệ Ngũ số 4
Đọc:
Chính quán quê nhà Ninh Giang,
Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
Lẫm liệt tung hoành uy gia,
Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
Bộ tiên nàng thử tự dâng huệ.
Chầu thôi lại trở ra về,
Truyền quân dâng nước Thuỷ tề mênh mông.
Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,
Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
Có phen xuất nhập trang đài,
Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
Phú:
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiểu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Đấng anh hùng cổ kim lừng lẫy,
Cửa sông đâu có phụng thờ,
Khắp xa gần đã dậy thần cơ,
Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắc miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
Thơ:
Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Bến sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Thanh long đao năm xưa cửu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang
Oán:
Nhưng nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
Ngày hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Quan lớn Tuần oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Bắt đày chốn sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Gió lạnh sương sa vì đời bội bạc,
Sự ngay gian đảo lộn trắng đen.
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Lỡ hại người trong lúc phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ,
Nợ trần hoàn quyết trả cho xong.
Tháng hai vừa tiết trung tuần,
Thử lòng ông lão, mộng trần ứng ngay.
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ,
Đôi bạch xà tựa cửa hôm mai.
Tri đã quyết khỏi vòng cương toả,
Hay đâu còn mắc nợ oan khiên.
Ngài vừa hay có lệnh ban truyền,
Quan quân tầm nã khắp miền sông Tranh.
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Cho sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn.
Văn Giảo Long Hầu
Bản văn này do cụ Phạm Văn Kiêm viết dùng để hầu giá Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh thuộc hàng Quan Lớn trong Tứ Phủ.
Kỳ sơn cùng thủy lưu canh thuyết
Long hầu đệ ngũ chân hào kiệt
Ninh giang có địa bấy oan cừu
Anh dũng hiên ngang huyền nhật nguyệt
Việt sử chép hùng triều thập bát
Cảnh địa linh bạch hạc phong châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bề yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan tuần tranh lẫm liệt anh hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu
Giảo long hầu khâm ban sắc tứ
Chấn ninh giang thủy bộ chư danh
Bao phen đắp lũy xây thành
Khắp miền duyên hải sống tranh nức lòng
Tài cung kiếm sánh cùng Võ, Tử
Đức kinh luân vi tựa Trương, Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông
Chỉ đá sắt ngoài vòng cương tỏa
Hay đâu là duyên nợ ba sinh
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thỏa lòng tráng sĩ tài danh phi nguyền
Thề non nước nên duyên kỳ ngộ
Bỗng sai nên mắc tội oan khiên
Tin lệnh khẩn cấp ban truyền
Quan quân tầm nã khắp miền sông Tranh
Khắp thủy điện cung đình tra xét
Bắt Giao long hầu Tước ngoài khơi
Tội vì ong bướm là lơi
Chiết hoa đoàn tụ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thủy kiệt
Nỗi oan này có biết hỡi cao minh
Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân đành nhẽ nhục vinh lẽ thường
Đường thiên lý quan sơn bỡ ngỡ
Hỡi trăng già có tỏ cho ai
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu
Hỏi hoa cỏ mưa dầu nắng dãi
Vẫn tốt tươi hả ngại phong ba
Cỏ cây ơi có thấu lòng ta
Sơn cùng thủy kiệt sương sa lạnh lùng
Chữ thác trong còn hơn sống đục
Nước sông cùng tắm ngọc côn sơn
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
Sông cùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật mà lòng như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa bay
Nỗi oan chuyển đất động trời
Dây oan đổi biến thành đôi long xà
Vì cổ quận tin nhà hữu phúc
Thử lòng người trong lúc lánh nhân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Ông bà nông lão muôn thần ứng ngay
Giấc mộng tỉnh mới hay sự lạ
Đôi long xà tựa cửa hai bên
Long xà kỳ dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tại bay họa rủi
Hai ông bà mắc tội của công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Trộm gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương long xà tựa thể thương con
Khẩn đàn tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mệnh mộng
Long và thoát xuống thủy cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bỗng long hầu nổi dậy nơi nơi
Những phường hại nước hại người
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về tòa thủy tộc
Tội gia hình bố lúc sai ngoa
Lẽ thường tội bảo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang từ thời Thục trị
Giặc Triệu Đà cố ý xâm lăng
Triều đình hạ lệnh tiến binh
Thuyền bè qua bến sông tranh rợp trời
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều khủng khiếp sợ kinh
Hỏi ra mới biết oai linh
Trình bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió đoạn sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông
Công cứu quốc gia phong thượng đẳng
Tước long hầu truy tặng Đại Vương
Biển vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung khi tiết đôi đường vẹn hai
Oan đã tỏ soi đời càng tỏ
Trấn Ninh giang vạn cổ tối anh linh
Thơ:
Sông tranh ơi hỡi sông tranh
Trăng nước còn in một mảnh tình
Lẫm liệt tung hoành oai tráng sĩ
Ngàn năm ghi để dấu anh linh
Hỡi ai qua bến sông tranh
Nhớ người tráng sỹ tài danh tuyệt vời
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi
Sông tranh còn đỏ ơn người còn ghi
Trên đây là các bản văn Quan Đệ Ngũ hay nhất được Tín Ngưỡng Việt sưu tầm để giới thiệu đến các bạn. Kinh chúc bạn và gia đình luôn mạnh khỏe – bình an.
Xem Thêm