Quan Đệ Ngũ : Tìm hiểu về Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh chi tiết

Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Cửa sông đâu đó phụng thờ
Kỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần Tranh

Chim Phượng 2

Sơ lược về Quan Đệ Ngũ

Danh hiệu:

  • Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
  • Ông Lớn Tuần Tranh

Sắc phong: Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Đệ ngũ Tuần Tranh.

Phủ/ nơi cai quản:

  • Thống lĩnh thiên địa binh
  • Thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gia

Ngày khánh tiệc:

  • 14/2 Âm Lịch: Đản Sinh
  • 25/5 Âm Lịch: Ngày hóa

Trang phục:

  • Áo Lam thêu rồng
  • Đeo hổ phù
  • Mạng Lam
  • Đai Lam

Đền thờ:

  • Đền Ninh Giang (Hiair Dương)
  • Đền Kỳ Cùng (Lạng Sơn)
  • Đền Cửa Đông (Lạng Sơn)
Canh hoa trang

Thần tích Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh là vị tôn quan thứ 5 trong Ngũ vị Tôn quan sau hàng Tam tòa Thánh mẫu. Vai trò Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là Thanh tra, giám sát nhân gian. Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tử phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể), thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sở cho trần gian.

Sắc phong: Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Đệ ngũ Tuần Tranh.

Than tich Quan Lon De Ngu Tuan Tranh

Có một số truyền thuyết về gốc tích của ông nhất là qua Ngọc phủ Thần tích các đền phủ của Tín ngưỡng Tam Tứ Phủ, đền thờ Ông cũng như qua các bài Văn chầu. Phần lớn các truyền thuyết đều xoay quanh các sự kiện ông sống vào thời Vua Hùng Vương thứ 18 tức Hùng Duệ Vương, ông là một trong số 10 vị tưởng đã cùng Phạm Vĩnh đã lập lên chiến công lớn đánh đuổi quân xâm lược trên 8 cửa biển. Ngài Phạm Vĩnh hay còn gọi là Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương chính là Vua Cha Bát Hải Động Đình.

Bản thần tích phổ biến nhất là bản thần tích Đền Đồng Bằng (bạn đọc xem thêm trong phần viết về Vua Cha Bát Hải Động Đình), theo đó thì ngài Phạm Vĩnh được sinh ra từ một ông rắn lớn, khi đất nước lâm nguy ông rắn đó đã biến thành người để xin Vua Hùng thứ 18 đánh giặc. Sau đó ngài Phạm Vĩnh triệu 2 em, tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan. Một trong số 10 tưởng của Vĩnh Công chính là Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Sau đó Vĩnh Công cùng Quan lớn Thượng (Quan Lớn Đệ Nhất) chặn giặc ở cửa sông Cải, Quan lớn đệ Tam cùng Quân sư Nuồi và quan đệ Ngũ chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cảnh quân chặn giặc đường bộ của Sơn Thánh, các vị Quan lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước Nam. Đúng hẹn 3 ngày, Vĩnh Công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển.

Ngoài ra còn có một truyền thuyết về Quan Lớn Đệ Ngũ như sau:

Ông giáng trần là con trai thứ năm của trong một gia đình lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang (nay thuộc Hải Dương) thời Hùng Triều thứ 18 (Hùng Duệ vương). Tuổi tác đã cao mà vợ chồng ông lái đò mà chưa có người nối dõi. Một lần ông bà bắt được bào thiêng trong có một ổ trứng trắng liền mang về nhà. Trải 9 mùa trăng đi qua, vào một ngày trời đầy mưa giông, sấm giật, 9 quả trứng nứt vỏ, 9 con rắn ra đời, ngày tháng thoi đưa, lũ rắn cũng lớn dần lên.

Năm ấy, đất nước có giặc, vua Hùng phải lập đàn khẩn cầu các Thần linh giúp sức, lại sai sứ giả đi chiêu tập hiền tài huấn luyện binh nhung. Nghe tiếng loa truyền, 9 rắn hoá thành 9 chàng trai, cùng vào yết kiến nhà vua xin tham gia tiểu trừ quân giặc. 9 anh em nhất hộ, bách ứng kéo theo cả thuồng luồng, thuỷ quái ra trận. Chi một ngày giặc tan, đất nước trở lại thanh bình. Vua Hùng truyền lệnh phong cho 9 chàng trai là 9 ông Hoàng. Ngày 22 tháng 8 năm Bính Dần, bỗng một vầng hào quang chói loà, 9 chàng trai lại trở thành 9 con rắn trở về với dòng sông Tam Kỳ. Từ đó dân làng truy ơn lập 9 ngôi đền thờ các dũng tướng đã giúp vua trừ giặc ở dọc hai bờ sông, từ bến đò Tranh đến tận cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng là nơi thờ người cha chèo đò trên bến sông thuở ấy, với duệ hiệu Trấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải Động đình gọi nôm là Vua cha Bát Hải. Ông là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu.

Như vậy hầu hết các bản thần tích đều nhấn mạnh rằng Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là một trong 10 vị tướng đã cùng Vua Cha Bát Hải Động Đình đã lập lên những chiến công lớn đánh giặc ngoại xâm vào thời Hùng Duệ Vương thứ 18. Ngoài ra một số bản thần tích còn nhấn mạnh thêm rằng ngài chính là con trai thứ năm của Vĩnh Công Đại Vương – Vua Cha Bát Hải Động Đình.

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Bởi vậy mà có văn như sau:

Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên cộng hàng đầu

Trong Tín ngưỡng Tam Tứ Phủ ngài Vĩnh Công Đại Vương chính là Vua Cha Bát Hải Long Vương thuộc về Thoải Phủ. Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là một trong mười vị tưởng và Quan Đệ Ngũ cũng được coi chính là con trai của Vua Cha Bát Hải. Trong hàng Ngũ vị Tôn quan, Ông là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân tôn kính phụng thờ.

Câu chuyện Quan Lớn Đệ Ngũ bị mắc oan

Theo một sự tích kể lại thì Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp là vợ lẽ của một viên quan, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh chồng chung, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Ông vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, vu cho ông đã quyến rũ vợ mình. Ông bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, để chứng tỏ mình vô tội, ông nhảy xuống dòng sông Kì Cùng mong rửa oan. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Đến khi viên quan phủ biết chuyện ông bà nông lão mua gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và đòi giết chết đôi bạch xà. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.

Cũng một truyền thuyết khác nói rằng ngài là em rể của Quan Đệ Tam. Khi Quan đệ Tam đi xử, bọn nịnh thần đố kỵ đổ cho Ngài gian dâm với chị vợ có thai, vua Hùng đầy Ngài ra biên giới. Ở nơi rừng thẳm chốn kỳ cùng, Ngài đã thác hóa cùng lời thề với trời xanh “xin dòng suối này nước chia đôi dòng từ đây”. Sau khi về trời dây oan của Ngài hóa thành đôi Bạch Xà về chốn quê hương, được hai ông bà nông dân nuôi dưỡng. Vì rắn càng ngày càng lớn mà gia cảnh thì nghèo nên ông bà phải đi ăn trộm cho rắn ăn và bị nhân dân bắt được nộp lên quan. Ông bà thật thà kể lại mọi chuyện. Quan bắt ông bà nộp rắn nhưng khi quan quân đến thì đôi Long Xà rẽ nước xuống thủy cung rồi nổi trận phong vân ầm ầm, Quan lớn Ngài thị hiện. Dân chúng biết Ngài bị oan lập đền thờ phụng sự.

Chính vì Quan Đệ Ngũ phải gieo xuống sông tự vẫn, cho nên một số tài liệu viết rằng rằng đến triều hậu Lê, Ngài thị hiện thành tướng quân Trần Nguyên Hãn với kết cục cũng phải đắm mình xuống sông tự vẫn. Đến thời sau lập đàn tràng giải oan cho các công thần thời hậu Lê ở chùa Côn Sơn trên núi Ngũ Nhạc: đào giếng rồng, lấy nước sông Kỳ Cùng để tắm ngọc Côn Sơn và từ đó hình thành long cung ngũ nhạc, Nam Bang thống nhất thánh cũng bắt đầu sinh ra. Ngài đã trở thành bất tử, không còn phải oan ức nữa và công lao của Ngài được truyền tụng vĩnh hằng.

Quan Lớn Đệ Ngũ hiển linh giúp An Dương Vương

Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Nam Việt ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thẳng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giao Long Hầu. Sau này ông còn hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân. Khi đô hộ Tàu đi dẹp giặc Chiêm Thành qua sông Tranh, Ngài đã hiển linh và đô hộ đã phong tước lập đền thờ Ngài.

Bởi vậy mà có văn như sau:

Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão tập
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương

Cao Lỗ không phải là Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Một số tài liệu cho rằng Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh hóa thân thành Cao Lỗ tướng quân, tạo nỏ thần bách chiến bách thắng. Tuy nhiên theo tác giả thì quan điểm này không đúng vì những lý do sau:

Thứ nhất: Tất cả các thần tích và văn hầu đều nhắc đến Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh dưới triều Vua Hùng thứ 18. Ngài là một trong 10 vị tướng tài của Vĩnh Công Đại Vương đã lập lên những chiến công lớn đánh thắng giặc ngoại xâm.

Thứ hai: Không có thần tích hay bản văn chầu nào nói về việc Cao Lỗ là Quan Đệ Ngũ. Chỉ có bản văn chầu nói đến sự kiện Quan Tuần Tranh hiển linh ở sông Tranh khi quan quân của An Dương Vương đi qua đây.

Thứ ba: Các ngôi đền thờ Cao Lỗ không có sự liên hệ với Quan Đệ Ngũ hay gắn liền với tín ngưỡng Tứ Phủ.

Thứ tư : Xét về mặt logic nếu như Quan Tuần Tranh đã giáng vào Cao Lỗ tướng quân rồi thì không thể có chuyện ngài hiển linh ở sông Tranh khi quan quân của An Dương Vương đi qua sông Tranh được, vì khi đó ngài đã ứng vào Cao Lỗ tướng quân rồi. Và biết đâu cũng có thể trong số quan tướng của An Dương Vương khi đi qua sông Tranh cũng có mặt Cao Lỗ ở đó.

Chuyện “Ông Dài Ông Cụt” không phản ánh đúng về Quan Tuần

Có một số tài liệu nói về câu chuyện truyền thuyết “Truyện ông Dài, ông Cụt” để nói về sự tích Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Tuy nhiên theo tác giả thì câu chuyện này không phản ánh đúng về ngài.

Đọc câu chuyện “Ông Dài Ông Cụt”

Phản biện về chuyện Ông Dài Ông Cụt

Tác giả nhận thấy chuyện “Ông Dài Ông Cụt” có phần không phản ánh chính xác về hình ảnh Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, và tác giả xin đưa ra những nhận xét như sau:

Thứ nhất

Chuyện “Ông Dài Ông Cụt” không nêu ra được hoặc không liên hệ được với những chiến công của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh chống giặc ngoại xâm vào thời Vua Hùng thứ 18. Sự thiếu xót này rõ ràng không hợp lý, không phù hợp với những bản văn chầu ca ngợi công lao to lớn của ngài trong công cuộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước.

Thứ hai

Chuyện “Ông Dài Ông Cụt” nhấn mạnh đến việc làm sai trái của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, trong khi các bản thần tích và văn chầu thì nhấn mạnh rằng Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh vốn bị oan chứ không phải ngài gây ra tội lỗi thực sự. Xét về mặt nhân sinh thì tôi có quan điểm rằng Quan Đệ Ngũ bị oan là đúng, và ngài là người có đức độ. Nếu xét quan điểm ngài không bị oan thì ngài đã không thể hiển linh sau khi mất, và ngài cũng không thể được khắp nơi phụng thờ như ngày nay. Đây là điều thứ hai làm cho tôi thấy chuyện “Ông Dài Ông Cụt” không hợp lý và không phản ánh đúng hình ảnh của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.

Thứ ba

Theo truyền thuyết và một số bản chầu văn thì “sau khi Quan Đệ Ngũ nhảy xuống dòng sông Kỳ Cùng, hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Vì rắn càng ngày càng lớn mà gia cảnh thì nghèo nên ông bà phải đi ăn trộm cho rắn ăn và bị nhân dân bắt được nộp lên quan. Ông bà thật thà kể lại mọi chuyện. Quan bắt ông bà nộp rắn nhưng khi quan quân đến thì đôi Long Xà rẽ nước xuống thủy cung rồi nổi trận phong vân ầm ầm và Quan lớn Ngài thị hiện, nhân dân biết ngài bị oan nên lập đền thờ”. Như vậy truyền thuyết cũng như bản văn chầu về Quan Đệ Ngũ có phần tương ứng với câu chuyện “Ông Dài Ông Cụt” ở chỗ đều có vợ chồng người nông dân nuôi một đôi bạch xà, sau đó đôi bạch xà trở về sông Tranh và hiển linh và được nhân dân lập miếu thờ phụng. Tuy nhiên giữa truyền thuyết cũng như bản văn chầu khác với chuyện “Ông Dài Ông Cụt” ở chỗ: theo truyền thuyết và văn chầu thì Quan Đệ Ngũ bị oan ức trước, bị đày đến chốn Kỳ Cùng rồi sau đó mới trở về thành đôi long xà để hiển linh, trong khi đó chuyện “Ông Dài Ông Cụt” lại nói Quan Đệ Ngũ là long và hiển linh ở sông Tranh trước, sau đó mới gây ra tội lỗi rồi bị oan và đày đến chốn Kỳ Cùng, trình tự cụ thể như sau:

Theo văn chầu và sự tích: Quan Đệ Ngũ lập lên những chiến công lớn thời Hùng Vương thử 18 → Ngài được ban thưởng và trấn giữ vùng Ninh Giang → Quan Đệ Ngũ bị oan vì thị phi — Ngài bị đày đến chốn Kỳ Cùng → Ngài đã gieo xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn → Ngài biến thành đôi bạch xà trở về quê nhà — Ông bà nông dân nuôi đôi bạch xà đỏ đến lớn → Ông bà nông dân sau đó thả đôi bạch xà về sông Tranh → Quan Tuần Tranh thị hiện và hiển linh ở sông Tranh → Nhân dân lập miếu thờ ngài — Sau này ngài hiển linh khi An Dương Vương cùng quân lính qua đây → Ngài được An Dương Vương sắc phong “Giảo Long Hầu”,

Theo chuyện “Ông Dài Ông Cụt”: Ông bà nông dân nhặt được hai quả trứng nở thành đôi bạch xà → Ông bà nông dân nuôi đôi bạch xà đỏ đến lớn → Ông bà nông dân sau đó thả đôi bạch xà về sông Tranh → Quan Tuần Tranh lộng hành ở sông Tranh → Nhân dân lập miếu thờ ngài — Sau đó ngài đã gây tai họa cướp vợ người khác và bị kết tội → Ngài bị đày đến chốn Kỳ Cùng.

Như vậy xét về mặt logic thì tác giả nhận thấy sự tích Quan Đệ Ngũ theo văn chầu là logic hơn nhiều so với chuyện “Ông Dài Ông Cụt” về mọi mặt, đặc biệt trong đó có yếu tố gắn kết chặt chẽ giữa các sự kiện với nhau để thành một câu chuyện dài có sự logic hợp lý.

Thứ tư

Mặc dù chuyện “Ông Dài Ông Cụt” không phản ánh chính xác về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, nhưng câu chuyện trên phần nào có thể hé mở ra tấm màn kịch về sự oan ức của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh đã diễn ra như thế nào. Nói cách khác chuyện “Ông Dài Ông Cụt” được ví như là cách hiểu sai của phần lớn những người bấy giờ về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, và cũng chính là lỗi oan ức của ngài. Phần lớn mọi người không biết được ngài bị oan nên đã có một cách hiểu khác đi như vậy về ngài, từ đó mà đã hình thành câu chuyện “Ông Dài Ông Cụt”. Trong câu chuyện trên phải chăng có sự tương xứng như sau: Vua Thủy chính là Vĩnh Công Đại Vương – Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn và vị tướng tài ba thống lĩnh toàn quân; Ông Cụt là Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, là vị tướng thứ 5 trong số 10 vị tướng của Vĩnh Công Đại Vương. Và như vậy phải chăng người đã xử phạt Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh phải đi đày đến chốn Kỳ Cùng lại chính là ngài Vĩnh Công Đại Vương, đây cũng chỉ là một giả thiết suy luận mà tôi đưa ra để chúng ta tham khảo mà thôi.

Hầu giá Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Trong các buổi lễ Mẫu – Tam tứ phủ, Ông đều giáng ngự đồng. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sở tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sở trạng rồi mới được đem đi hoá.

Hau gia Quan De Ngu Tuan Tranh

Khi ngự đồng, văn hát: Thỉnh mời Đệ ngũ tôn quan… ngài ra tay dấu 5 ngón phía tay trái, mặc áo xanh nhạt hoặc tím than, mạng, nét, đai cùng màu áo; múa đao (bên cán đao thắt một bông hoa bằng khăn hồng hoặc đỏ), ngự tửu thuốc, nghe văn, chứng lễ, phán truyền. Ngoài làm lễ khai quang, Ngài còn chứng sở vàng mã, kiểm duyệt sử sách…

Canh hoa trang

Các đền thờ Quan Đệ Ngũ

Đền Tranh (Hải Dương)

Đền Tranh, còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh, hay Đền Ninh Giang là ập bên bến sông Tranh ở xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn nay thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi chính quản quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích.

Cong Tam Quan Den Tranh (Hai Duong)

Thời Trần, tại vùng ngã ba sông Tranh giao với sông Luộc, người dân đã lập ra một ngôi đền thờ vị thủy thần cai quản khúc sông này. Ngôi đền này ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nằm sát bến sông, vì vậy thường bị tác động của thủy triều và dòng nước xoáy. Do bờ sông thường bị xói lở nên đến năm 1935, người dân lập một đền thờ mới tại làng Tranh Xuyên (nay thuộc thị trấn Ninh Giang). Ngôi đền mới này vẫn được dân chúng giữ tên gọi là Đền Tranh.

Đến giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX, đền Tranh được tôn tạo với quy mô khá lớn, kiến trúc theo kiểu Trùng thiềm điệp ốc với những cung và gian thờ khác nhau. Năm 1946, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, nhiều hạng mục ngôi đền bị tháo gỡ.

Đến những năm 60 của thế kỷ XX, đền được chuyển về phía bắc của thị trấn Ninh Giang cách đền cũ khoảng 300m, nay thuộc địa phận thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang. Đền Tranh qua ba lần chuyển dời cùng nhiều lần trùng tu tôn tạo, đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử và tích hợp được nét đẹp của văn hóa Việt. Căn cứ vào hệ thống bia ký tại đền cho biết, vào năm Tự Đức thứ 5 (1852) đền đã có nhiều người công đức để tu tạo.

Khi thực dân Pháp chiếm tỉnh Hải Dương và Ninh Giang, xây đồn bất gần khu vực đền nên nhân dân chuyển đền về phía Bắc đền cũ. Từ năm 1941 đến 1945, đền Tranh được tôn tạo rộng lớn, kiến trúc theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”, 5 nếp nhà nối liền nhau.

Năm 1946, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” các nếp nhà của đền lần lượt được tháo dỡ, chỉ để lại cung cấm làm nơi thờ tự. Năm 1954, đền Tranh được phục dựng lại để đáp ứng nhu cầu tin ngưỡng của nhân dân.

Năm 1966, do nhu cầu mở rộng doanh trại của quân đội, nên nhân dân địa phương cùng Lữ đoàn 513 chuyển 3 gian hậu cung về dựng tại địa điểm mới, cách đền cũ 300 m về phía Bắc (vị trí hiện nay).

Năm 1966, do nhu cầu mở rộng doanh trại của quân đội, nên nhân dân địa phương cùng Lữ đoàn 513 chuyển 3 gian hậu cung về dựng tại địa điểm mới, cách đền cũ 300 m về phía Bắc (vị trí hiện nay).

Năm 1996, được phép của UBND tỉnh, đền được xây dựng 7 gian tiền tế; Ngày 3 tháng 6 năm 1999, khởi công xây dựng nhà trung từ; năm 2004 hoàn thành việc xây dựng nghi môn và tòa hậu cung; năm 2006 xây dựng đông vu và nhà hóa sở.

Den Tranh (Hai Duong)

Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10-20 / 2, trọng hội vào 14 – ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20-26 / 5, trọng hội vào 25 – ngày hoá của Đức thánh.

Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn, thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc, một trong những hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố, bởi thế khách thập phương đến đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít khách đến lễ và không thể thiếu tiết mục hát chầu văn.

Đền Kỳ Cùng (Lạng Sơn)

Đền Kỳ Cùng (còn có tên là đền Quan Lớn Tuần Tranh) nằm bên tả ngạn sông Kỳ Cùng và ở ngay đầu cầu Kỳ Lừa; hiện thuộc địa phận phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Năm 1993, ngôi đền đã được xếp hạng là di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia. Theo sự tích thì đây chính là nơi Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh bị lưu đày.

Den Ky Cung - Lang Son

Không rõ năm xây dựng, chỉ biết đền Kỳ Cùng có từ rất lâu, và ban đầu chỉ là một ngôi đền nhỏ làm bằng đất lợp ngói, để thờ thần Giao Long, hay còn gọi là Giáo Long Hầu, tức là Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Theo tín ngưỡng của người dân địa phương, thì ngài là một vị Thủy thần.

Sách Đại Nam nhất thống chi chép về đền Kỳ Cùng như sau: Ở bên tả sông Kỳ Cùng thuộc xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, có con giao long thành thần đào hang ở đây, đền rất thiêng, nhiều lần được phong tặng. Khi sử bộ qua đây, trước sửa lễ cáo yết, sau mới sang đò.

Vì thời gian và vì chiến tranh, đền Kỳ Cùng xưa đã không còn. Ngôi đền ngày nay được xây dựng theo kiểu chữ đinh, mặt tiền quay về hướng Nam. Hiện nay, ngoài Quan Lớn Tuần Tranh, trong đền còn phối thờ Tam tòa Thánh Mẫu, Trần triều Đại vương và Công Đồng Tử Phủ. Hằng năm, lễ hội chính của đền được tổ chức từ ngày 22 . 27 tháng Giêng âm lịch.

Hội đền Tranh là ngày mở tiệc đón, ngày đản sinh (ngày 14/02 Âm lịch) từ ngày 10-20/2, ngày tiệc chính của Ông là ngày hóa (25/5 Âm lịch) từ ngày 20-26/5 là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này.

Đền Cửa Đông (Lạng Sơn)

Đền Cửa Đông có tên cũ là Đền Bạch Đế thờ thần Sông Kỳ Cùng (tức Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh), sách “Đại Nam Nhất Thống Chi” chép “Đề Bạch Đế ở phía Đông tỉnh thành, địa phận xã Mai Pha thuộc châu Ôn (Nay thuộc phía Cửa Đông Phường Chi Lăng) thờ Thần, nhiều lần được phong tặng”.

Den Cua Dong (Lang Son)

Kiến trúc Đình theo kiểu hình chữ Đinh, mặt trước sông Kỳ Cùng, cấu trúc gồm 3 phần liền nhau, Tam Quan – Chính Điện – Tả Hữu vu, xây bằng gạch các kiến trúc này đều thể hiện theo lối chồng diêm tám mái. Phải trên cũng được dựng bằng tường gạch, hai mặt hai bên được trang trí các đề tài “Lưỡng Long Chầu Nhật” và chữ Phúc tiện tròn… Đền Cửa Đông hiện nay ngoài việc thời thần Sông “Bạch Đế” còn là nơi thờ Tự Mẫu với số lượng khá phong phú. Đền Mẫu được bài trí hai bên: Gồm cung thờ Tử Phủ (Mẫu Thiên – Mẫu Thoải- Mẫu Thương Ngàn cùng Thập Nhị Tiên Cô) ở bên trái cung cô Ba ở bên phải. Tượng các ông Hoàng được bài trí cạnh cung thờ Thần sông ở chính diện.

Trước đây một sắc phong đời vua Thành Thái ban sắc vào năm 1889, hiện nay bản chính đã mất, nhưng nội dung còn được lưu giữ Đền cửa Tây cùng nằm ở phường Chi Lăng – Thị xã Lạng Sơn. Đền xây dựng vào năm 1924 có thờ đức Trần Hưng Đạo và các vị Thánh Mẫu, đền có tên chữ là Ngũ Nhạc Linh Từ.

Tài Liệu của Trường Viễn Đông Bắc Cổ – Pháp chép “Nơi này có một ngôi đền làm trên một ngôi đất, trông xuống sông Tam Kỳ (Kỳ Cùng) trước đây là núi Ngũ Nhạc, quả thật là nơi cổ tích”. Kiến trúc của đền gồm: Tam Quan ở ngoài và hai điện thờ ở phía trong. Tòa thứ nhất được dựng năm 1934 là điện thờ Mẫu. Tòa thứ hai có kiến trúc theo kiểu chữ định là điện thờ Đức Thánh Trần cùng các công chúa và các con trai của ngoài, cùng các vị tướng như: Phạm ngũ Lão – Dã Tượng – Yết Kiêu … đây là một trong những di tích thờ vọng Đức Thánh Trần Hưng Đạo ở Lạng Sơn.

Đền cửa Tây ngoài giá trị danh thẳng còn là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân. Trong đền còn lưu trữ được nhiều hiện vật có giá trị, đó là các bức hoành phi câu đối rất đẹp, đặc biệt có 3 tấm bia tạo hình rất có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu tra cứu về di tích lịch sử.

Canh hoa trang

Các bản chầu văn Quan Đệ Ngũ

Theo các tư liệu được tìm thấy, Tín Ngưỡng Việt đã sưu tầm được 3 bản văn chầu Quan Đệ Ngũ.

Trích đoạn

Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn

Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu

Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng

Xem chi tiết các bản văn Quan Đệ Ngũ

Canh hoa trang

Các câu hỏi về Quan Đệ Ngũ thường gặp

Quan Đệ Ngũ là ai?

Quan Đệ Ngũ là con trai thứ năm của Vua Bát Hải Động Đình. Trong thời kỳ Hùng Triều Thập Bát, Quan Đệ Ngũ giữ vị trí tướng quân tài ba và lãnh đạo lực lượng thuỷ bộ

Quan Đệ Ngũ cầm bản mệnh?

Quan Đệ Ngũ cầm bản mệnh Nhâm Tý, Ất Sửu, Tân Mão, Ất Mão, Canh Thìn, Giáp Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân

Quan Đệ Ngũ mặc áo màu gì?

Quan Đệ Ngũ mặc áo màu Xanh Lam thêu rồng, Đeo hổ phù, Mạng vàng và Đai vàng

Đền Quan Đệ Ngũ ở đâu?

Đền Quan Đệ Ngũ ở Hải Dương (Đền Tranh – Đền Ninh Giang), Lạng Sơn (Đền Kỳ Cùng và Đền Cửa Đông)

Canh hoa trang

Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Quan Đệ Ngũ.

Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:

  • Sách Tín Ngưỡng Tam Tứ Phủ và Thờ Thánh ở Việt Nam – Biên soạn TS Bùi Hùng Thắng
  • Sách Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Tứ Phủ chốn thiêng nơi cõi thực – TS Trần Quang Dũng
  • Các nguồn trên internet

Xin trân trọng cám ơn!

Tìm hiểu đầy đủ về Ngũ Vị Tôn Quan trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ

Hoa sen vàng

Tham khảo thêm