Bản văn Mẫu đệ Tam : 3 lời văn Thánh Mẫu Thoải Cung

Bản văn Mẫu đệ Tam – Xích Lân Công Chúa gồm những bản văn thỉnh Mẫu Thoải hay nhất được Tín Ngưỡng Việt sưu tầm để gửi đến các bạn.

Ban van Mau de Tam

Mẫu đệ Tam là ai ?

Mẫu Đệ Tam là vị nữ thần dân gian Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý các miền sông nước. Thánh Mẫu đệ tam được nhân dân ta thờ rất lâu đời. Sự tích của Thánh Mẫu được thể hiện rõ trong bản văn Mẫu Thoải, ngoài ra còn có tác phẩm “Liễu Nghị truyền thư” (Truyện Liễu Nghị).

Mẫu Đệ Tam còn có danh hiệu khác như

  • Mẫu Thoải
  • Thủy cung Thánh Mẫu
  • Xích Lân Công Chúa
  • Động Đình Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ
  • Thuỷ Tiên Công Chúa
  • Thuỷ Cung Thánh Mẫu

Tìm hiểu đầy đủ hơn về Mẫu đệ Tam

con chim phượng

Các bản văn Mẫu đệ Tam hay nhất

Các Bản văn được dùng để hát thờ vào những dịp tiệc đản, để hát văn thi và hát khi hầu giá Mẫu Đệ Tam. Cũng có khi dùng để hầu Chầu Đệ Tam.

Bản văn Mẫu đệ Tam số 1

Trịnh giang biên ngành ngân lai láng
Nguyệt lầu lầu soi rạng Nam Minh
Vốn xưa Thoải Quốc Động Đình
Có Tiên Long Nữ giáng sinh Đền Rồng
Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh
Nết nhu hòa bổn tánh thiên nhiên
Dung nghi khác giá Thần Tiên
Vàng trong nước lệ ngọc miền non côn
Thường chầu chực Kim Môn Ngọc Điện
Duyên Sắt Cầm chưa định nơi nao
Chúa từ gìn giữ thanh tao
Gió đằng vương các thư trao dưới màn
Chốn Thoải Cung có nhà lệnh tộc
Vốn con dòng danh ốc Kinh Xuyên
Xưa nay thế phiệt gia truyền
Thảo Mai nàng ấy tạm quyền tiểu tinh
Chí bình sinh phù đời giúp nước
Ơn Cửu Trùng phó thác biên giang
Vốn sanh Tiên Chúa phi phương
May nhờ lá thắm kết duyên tơ hồng
Trên Vương Phụ có lòng lân mẫn
Cho đôi người duyên phận sánh đôi
Chúa từ kết nghĩa Trần Châu
Đã đành núi thẳm vực sâu khôn nài
Kết duyên hài trăm năm phối thất
Đạo cang thường nhiệm nhặt tóc tơ
Cùng nhau chưa mấy nắng mưa
Ai ngờ ra sự thiên cơ quải người
Trách Thảo Mai đem lòng tráo trở
Giả đầu thư làm cớ chịu oan
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
Gieo oan một tiếng đem đầy mười đông
Trên dương thế một mình vò vỏ
Sớm khuya cùng núi cỏ ngàn cây
Đèn trăng chiếu đá màn mây
Dưỡng thân hoa quả bạn bè trúc mai
Thường vãng lai thanh sơn tú thủy
Lốt đại sà tượng thể ngư long
Có phen biến tướng lạ lùng
Mày ba yểu điệu má hồng phi phương
Có phen nhớ gia hương ròi rọi
Mặt trông chừng dạ rối châu sa
Có phen nương bóng Hằng Nga
Tưởng bề phu phụ xót xa muôn phần
Có phen trách lang quân bội bạc
Nghe ai làm chếch mát duyên ai
Có phen liễu úa đào phai
Phận đành chắp chi chông gai việc thường
Có phen tưởng giày sương giãi nguyệt
Bảo thân phàm mong quyết về không
Có phen giãi nắng non sông
Âu sầu đến nổi hình dung rõ ràng
Bốn bề những hổ lang ác thú
Vật đều cùng mến chúa hôm mai
Đua nhau trăm giống ngàn loài
Dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu
Vẹn mười thu giãi dầu mưa nắng
Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay
Chúa còn nhiều nổi riêng tây
Hay đâu con tạo vẫn xoay bởi trời
Trên dương thế có chàng nho sĩ
Văn tú tài Liễu Nghị là tên
Chàng từ nhỏ ấm xuân huyên
Sôi kinh nấu sử hằng chuyên việc mình
Thời gặp thuở Thần Kinh hội thi
Dặm đường trường Liễu Nghị vừa ra
Vũ môn mong nhảy đợt ba
Chỉ hiềm con tạo xoay ra ghẹo người
Đi đến nơi đầu non hiu quạnh
Bóng ác tà sương lạnh trời hôm
Bốn bề hoa cỏ xanh um
Trước hàng liễu úa sau chùm đào phai
Lòng quân tử đeo đai cảnh vật
Thấy Chúa ngồi tư chất dung nhan
Má đào mày liễu chứa chan
Nĩ non hòa khóc hòa than một mình
Chàng trông thấy sự tình cảm kích
Chúa ngập ngừng nhủ khách rằng cây:
“Sơn lâm rừng vắng đường này
Cớ sao quân tử đến đây lạc loài?
Bây giờ đã trăng soi ác lặng
Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao?”
Thưa rằng: “Hàn sĩ chí cao
Mười năm đèn sách công lao chuyên cần
Hội Long Vân còn chưa gặp gỡ
Sự duyên này cơn cớ bởi đâu
Dám xin kết nghĩa Trần Châu
Kẻo còn thục nữ đeo sầu dưới trăng”
Chúa nghe nói dùng dằng khôn xiết
Mới nhủ chàng cả quyết sao nên
“Thiếp nay người dưới Thoải Cung
Nghiêm đường trước đã định duyên giai kỳ
Khăng khăng giữ đạo tùy sau trước
Chẳng ngỡ chàng tính nước lòng mây
Bỗng không gắp lửa bỏ tay
Gieo oan một phút đem đầy mười đông
Phiền quân tử tin thông nhạn cá
Duyên sự này thiếp há đơn sai”
Chàng rằng: “Nguyện đặng như lời
Sá chi bể rộng sông dài quản đâu”
Nhờ bóng nguyệt đêm thâu soi tỏ
Giải tất lòng thề có cao xanh
Hàn Sơn nghe vẳng tiếng kình
Kim ô bóng đã lộ hình ra đâu
Chúa hiềm nổi bấy lâu oan ức
Phó Kim Thoa một bức Thư Phong
Dặn Chàng ra mái bể Đông
Tới đâu xem thấy ngô đồng cây cao
Lấy Kim Thoa gõ vào cây ấy
Dưới Thủy Tề nghe thấy không lâu
Tùy cơ ứng biến nhiệm mầu
Hẹn Chàng thưa gửi gót đầu đinh ninh
Chàng quân tử tâm tình sau trước
Dạ bùi ngùi chân bước đường thông
Bể nào lai láng xa trông
Nửa lo sự chúa nửa mừng sự duyên
Sông Vân Hán băng miền Thoải Phủ
Đến ngô đồng tay gõ một thôi
Tự nhiên nổi trận phong lôi
Giữa dòng trông thấy một đôi Bạch Sà
Chàng trông thấy sự đà ứng hiện
Mới hay lời Chúa phán phân minh
Bạch Sà lui xuống Động Đình
Bách quan rẽ nước giàng xanh rước chàng
Rước chàng xuống Điện Vàng Thoải Phủ
Thấy triều thần văn võ đôi bên
Tiêu thiều nhã nhạc tấu dưới trên
Tả biên Ngư Mục, hữu biên Bạch Sà
Kim Quy Sứ tâu tòa Ngọc Bệ
Mời phán đòi Liễu Nghị vào trong
Chàng liền dâng bức thư phong
“Bái lạy Vua Cha
Thân nữ nhi phận gái hồng nhan
Sanh vào cửa Quyền Môn Quý Tộc
Tam niên dưỡng dục, Phụ Tử tình thâm
Khi lớn khôn duyên bén sắt cầm
Khăng khăng giữ tòng phu phải đạo
Trách bà Nguyệt Lão khéo quải duyên ai
Vì tiểu tinh là cái Thảo Mai
Đầu thư giả làm ra oan trái
Trách chàng cả dạ nghe đứa tà gian
Bảo rằng con nết ở đa đoan
Đem đầy chốn rừng xanh núi cỏ
Một mình vò vỏ nào có ai hay
Ngày gió đưa bạn với cỏ cây
Đêm trăng bạc biết cùng ai năn nỉ
Bỗng đâu nho sĩ bước đến thẩn thơ
Nguyệt tà tà thẩn thẩn thờ thờ
Nhìn nông nỗi dừng chân khốn bước
Trước sau sau trước mượn bút thay lời
Chiếc kim thoa cùng bức thư này
Dẫu nghìn dặm công lệnh đừng có tiếc
Gieo oan một tiếng vắng vẻ mười đông
Sự xoay vần đã có Thiên Công
Thư một bức xin dâng lên Vương Phụ”
Phụ Vương xem thấy trong lòng quặn đau
Trách Kinh Xuyên cơ cầu độc giữ
Mới truyền đòi Hoàng Tử Xích Lân
Phán rằng: “Chúa phải gian truân
Con Vua rước xuống Thoải Cung chớ chày”
Lời Vương Phụ truyền ngay tức khắc
Tôn Ông bèn hóa phép thần thông
Chiêng kêu, cờ phất, trống rung
Khắp hòa thế giới đều cùng mênh mông
Bốn phương trời mưa rong chớp giật
Quỷ cùng tà thán khắp mọi nơi
Chúa Tiên về tới Long Ngai
Tội Kinh Xuyên với Thảo Mai đi đày
Công cán này ai bằng Liễu Nghị
Sắc phong làm Quốc Tế Thoải Cung
Chàng từ vâng lệnh Thiên Nhan
Duyên ưa phận đẹp sắc ban trọng quyền
Duyên Thiên Công bày yên thuở trước
Người phàm trần lại được sánh Tiên
Chàng từ kim cải bén duyên
Có danh trí tuệ có quyền anh linh
Dù ai phải bệnh cùng khí huyết
Lập đàn lên chầu hát lại tha
Dầu ai dâng tiến hương hoa
Tiền tài lưu loát cửa nhà khang ninh
Dầu ai dốc lòng thành phụng bái
Phúc đến nhiều lộc lại đề đa
Toàn gia con cháu vinh hoa
Mãn đường phú quý trẻ già bình an
Chữ rằng: “Thánh giáng lưu ân”
Thánh giáng lưu phước thiên xuân thọ trường.

hoa lê

Bản văn Mẫu đệ Tam số 2

Anh linh lừng lẫy chốn giang khê
Nức tiếng con vua dưới thuỷ tề
Ngán nỗi Kính Xuyên rời chỉ thắm
May nhờ Liễu Nghị chắp dây xe
Rập rìu tin nhạn thư vừa tới
Thấm thoát xe loan phút đã về
Hiển hách xưa nay ai dễ tỏ
Có chăng gửi một bức thư đề

Miễu:

Trạnh giang biên doành ngân lai láng
Nguyệt lầu lầu soi rạng Nam Minh
Con vua thuỷ quốc Động Đình
Có tiên thần nữ giáng sinh đền rồng
Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh
Nết nhu mì bẩm tính thiên nhiên
Dung nghi cốt cách thần tiên
Vàng trong nước lệ ngọc miền non côn
Hằng chầu chực kim môn ngọc điện
Duyên sắt cầm chưa định nơi nao
Chúa từ gìn giữ thanh tao
Gió đằng vương các thư trao dưới màn
Chốn thuỷ cung có nhà lệnh tộc
Vốn con dòng danh ốc Kính Xuyên
Xưa nay thế phiệt gia truyền
Thảo Mai nàng ấy tạm quyền tiểu tinh
Chí bình sinh phù đời giúp nước
Ân cửu trùng phó thác biên cương
Giá danh công chúa phi phương
May nhờ lá thắm xe duyên tơ hồng
Trên vương phụ có lòng lân mẫn

Thổng:

Cho hai người duyên phận sánh nhau
Chúa từ kết nghĩa trần châu
Đã đành chỉ thắm giành sâu khôn nài
Ước trăm năm duyên hài phối thất
Đạo cương thường nhiệm nhặt tóc tơ
Cùng nhau chưa mấy nắng mưa
Ngờ đâu duyên phận thiên cơ bởi trời
Trách Thảo Mai ra lòng giáo giở
Trá đồ thư làm cớ gieo oan
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
Nỡ đem đầy chốn lâm sơn sao đành
Đỉnh non xanh một mình vò võ
Sơm khuya cùng núi cỏ ngàn cây
Đèn trăng chiếu đá màn mây
Dưỡng thân hoa quả bạn bày trúc mai
Thường vãng lai thanh sơn tú thuỷ
Lột đại xá tựa thể ngư long
Có phen biến tướng lạ lùng
Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương
Có phen nhớ gia hương rười rượi
Mặt rầu rầu dạ rối châu xa
Có phen tưởng khách Hằng Nga

Bình:

Tưởng bề phu phụ xót xa muôn phần
Có phen trách lương quân bội bạc
Cả nghe mà trách mếch duyên ai
Có phen liễu ủ đào phai
Phận đành chắp chi xe gai việc thường
Có phen trai dầu sương dãi nguyệt
Ba thu tròn mong quyết quy không
Có phen nhìn áng non sông
Âu sầu đến nỗi hình dung vô vàng
Tứ bề những hổ lang ác thú
Vật đều cùng mến chúa hôm mai
Đua nhau trăm giống nghìn loài
Dâng hoa cúng quả không nài công phu
Trải mười thu dãi dầu sương nắng
Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay
Chúa buồn vì nỗi riêng tây
Hay đâu con tạo vần xoay bởi trời
Trên dương thế có người nho sĩ

Phú chênh:

Văn tú tài Liễu Nghị là tên
Trẻ thơ nhờ ấm thung nguyên
Sôi kinh nấu sử hằng chuyên việc mình
Vừa gặp khoá thần kinh hội thí
Dặm đường trường Liễu Nghị trẩy ra
Vũ môn mong nhẩy đợt ba
Chỉ hiềm con tạo xoay ra bởi trời
Đi tới đó đầu nơi non quạnh
Bóng ác tà sương lạnh đầu hôm
Đầy ngàn hoa quả xanh um
Trước hàng liễu ủ sau chùm đào phai
Lòng quân tử đeo đai cảnh vật
Thấy chúa ngồi tư chất dung nhan
Má đào châu lệ chứa chan

Phú giầu:

Nỉ non tấm tức khóc than một mình
Chàng trông thấy tâm tình cảm kích
Chúa ngập ngừng hỏi khách rằng hay
Sơn lâm rừng vắng chốn này
Cớ sao quân tử tới đây lạc loài
Bây giờ trăng soi ác lặn
Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao
Thưa rằng hàn sĩ trí cao
Mười năm đèn sách công lao chuyên cần
Hội Long Vân hiềm chưa gặp gỡ
Duyên sự này cơn cớ hỏi đâu
Dám xin kết nghĩa trần châu
Kẻo còn thục nữ đeo sầu dưới trăng
Chúa nghe nói rùng rằng khôn siết
Mới nhủ chàng cả quyết sao nên
Tôi nay người dưới thuỷ tiên
Nghiêm đường trước đã định duyên giai kỳ
Khăng khăng giữ đạo tuỳ sau trước
Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây
Bông không gắp lửa bỏ tay
Gieo oan thất tiên đem đầy mười đông
Phiền quân tử tin thông nhạn cá
Nói lối:
Duyên sự này thiếp há đơn sai
Chẳng rằng hẳn được như lời
Sá chi bể rộng sông dài quản đâu
Nhờ bóng nguyệt đêm thâu giãi tỏ
Giãi tấc lòng nhờ có cao xanh
Hàn Sơn nghe vẳng chuông kình
Kim ô bóng đã xế hình bãi dâu
Chúa hiền nỗi bấy lâu oan ức
Phó cho chàng một bức thư phong

Thủ vân:

Nữ tiên thủ bút
Bái tạ Long cung
Lạy vua cha chính ngự ngai rồng
Tường sự tích chung tình trúc chiếu
Phận con niên thiếu
Nữ tắc nữ công
Tự Kính Xuyên sớm kết chỉ hồng
Duyên cá nước sắt cầm hoà hợp
Vì nàng tiểu thiếp
Tên gọi Thảo Mai
Bỗng vì đâu đặt để nên nhời
Phút chốc khiến bắc nam đôi ngả
Hư không làm có
Gắp lửa bỏ tay
Trách chàng chẳng xét gian ngay
Nỡ bắt thiếp đem đầy viễn thú
Hôm mai vò võ
Tủi ngậm ngùi than
Tấm lòng son bối rối gan vàng
Đâu dạ sắt ngẩn ngơ mặt ngọc
Tưởng duyên tơ tóc
Tủi phận má hồng
Khi vui thời bạn trúc thông
Khi buồn lại than cùng hoa cỏ
Thiên duyên kỳ ngộ
Sẽ gặp tình quân
Gửi bức thư về mái hải tần
Trình khắp hết lưỡng ban thần tử
Nỗi niềm tâm sự
Mượn bút thay lời
Gửi chàng đi đến mai Long giai
Để thiếp được gần chầu thánh đế
Sơn minh hải thệ
Tạc dạ ghi lòng
Ví dù ai phụ nghĩa quên công
Xin xoi xét đôi vầng nhật nguyệt

Vãn:

Dặn chàng ra mái bể Đông
Tới đâu hễ thấy ngô đồng cây cao
Lấy kim thoa gõ vào cây ấy
Dưới thuỷ tề nghe thấy không lâu
Tuỳ cơ ứng biến nhuộn mầu
Mặc lòng nhời nhỏ, mặc dầu thơ trao
Chàng nghe nói tiêu hao sau trước
Dạ bùi ngùi chân bước đường thông
Bể đào lai láng xa trông
Nửa lo nỗi chứa nửa lòng sự duyên
Sông Ngân hán băng miền thẳng trỏ

Kiều dương:

Tới ngô đồng tay gõ vừa thôi
Tự nhiên nổi trận phong lôi
Giữa giòng bỗng thấy một đôi bạch xà
Chàng trông thấy sự đà ứng hiện
Mấy bầy nhời chúc kiến phân minh
Bạch xà thoát xuống động đình
Sai lên rẽ nước giòng xanh rước chàng
Rước chàng xuống đền vàng Thuỷ Phủ
Thấy quần thần văn vũ đôi bên
Tiêu thiều nhã nhạc dưới trên
Tả bầy ngư miếc hữu chen long xà
Kim quý sứ tâu toà ngọc bệ
Bước ra mời Liễu Nghị vào trong
Chàng quỳ dâng bức thư phong
Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau
Trách Kính Xuyên cơ cầu độc giữ
Mấy truyền đòi trưởng từ Xích Lân
Phán rằng chúa phải gian truân
Con nên rước xuống về sân chớ chầy
Nhời vương phụ phán ngay vừa kíp
Xích Lân bèn hoá phép thần thông
Bể đào lai láng mênh mông
Khắp hoà thế giới đều cùng mênh mang
Sấm chớp vang mưa tuôn bão giật

Cờn:

Quỷ cùng ta thán khắp mọi nơi
Chúa tiên về tới long giai
Kính Xuyên phải tội Thảo Mai gia hình
Công cán này ai tày Liễu Nghị
Phong cho làm quốc tế thuỷ quan
Chàng từ vâng lệch thiên nhan
Duyên ưa phận đẹp chức ban trọng già
Mái tiên cung an bài tự trước
Kẻ phàm trần bỗng gặp sánh tiên
Chàng từ Kim cải bén duyên
Có danh trí tuệ có quyền anh linh
Dầu ai phải bất bình mỏi mệt
Tiền tài lưu loát cửa nhà khang ninh
Đã nên đấng anh linh kỳ diệu

Ồn đại thạch:

Dám xin những sự đã rồi
Xin đừng nói đến những lời làm chi
Kìa Vũ thị hảo tuỳ một tiết
Chàng Trương sinh chẳng biết ngay gian
Bóng đèn nghe trẻ nói oan
Làm cho thiếu nữ hồng nhan liều mình
Đã nên đấng anh linh liệt nữ
Trách chi người vụng xử chấp nê
Bằng nay tiên chúa sinh chi
Giá đem sau trước mà suy sự lòng
Rũ sạch không những niềm tân khổ
Nương uy trời tế độ sinh linh
Đời đời nức tiếng thơm danh
Biển vàng ghi tạc sử xanh dõi truyền
Kiêm ngũ phúc dâng lên cõi thọ
Nước trị trường thánh chúa hưng long
Mẫu về chắc giáng điện chung
Cuông phù đệ tử hưng long thọ trường

hoa lê

Bản văn Mẫu đệ Tam số 3

Vầng nguyệt ai soi dưới thủy cung
Mặt hoa lồ lộ ngự ngai rồng
Giăng đôi tám tuổi lầu lầu
Sạch gương một vừng in lẻo lẻo trong

Trách bóng trăng loan duyên quái bạc
Lo đôi nên phượng ánh thêm hồng
Anh linh thần nữ quyền cai quản
Thủy quốc nhân gian một mối thông

Trịnh giang biên doành ngân lai láng
Nguyệt lầu lầu soi sáng nam minh
Con vua thủy quốc động đình
Có tiên thần nữ giáng sinh đền rồng
Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh
Nết nhu mì vốn tính thiên nhiên

Dung nghi cốt cách thần tiên
Vàng trong đáy biển ngọc miền non côn
Hằng chầu trực kim môn ngọc điện
Duyên sắt cầm chưa định nơi nao

Chúa từ giữ tiết thanh tao
Gió đằng vương các thư trao dưới màn
Chốn thủy quan có nhà lệnh tộc
Vốn con dòng danh ốc Kính Xuyên

Xưa nay thế phiệt gia truyền
Thảo Mai tiểu thiếp tạm quyền tiểu tinh
Chí bình sinh phù đời giúp nước
Ân cửu trùng phó thác biên cương

Mang danh tiên chúa phi phương
May nhờ lá thắm mừng duyên tơ hồng
Trên vươn phụ có lòng lân mẫn
Cho đôi người duyên phận sánh nhau

Kể từ kết nghĩa trần châu
Đã đàng đỉnh thắng dành sâu khôn nài
Ước trăm năm duyên hài phối thất
Đạo cương thường nhiệm nhặt tóc tơ

Cùng nhau chưa mấy nắng mưa
Hay đâu ra sự thiên cơ quải người
Trách Thảo Mai ra lòng giáo dở
Trá đồ thư làm cớ gieo oan

Kính Xuyên chẳng xét ngay gian
Phạt người nỡ để lầm than sao đành

Đỉnh non xanh một mình vò võ
Sớm khuya cùng núi cỏ ngàn cây
Đèn giăng quạt gió màn mây
Dưỡng thân hoa quả bạn bầy hươu nai
Thường vãng lai thanh sơn tú thủy
Lốt đại xà hình thể ngư ling
Có phen biến tướng lạ lùng
Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương

Có phen nhớ gia nương rười rượi
Mặt rầu rầu dạ tối châu sa
Có phen thấp thoáng hằng nga
Nghĩ đường phu phụ xót xa muôn phần

Trách lang quân sao chàng bội bạc
Cả nghe thành trách móc duyên ai
Dãi rầu liễu ủ đào phai
Phận đành chắp chỉ xe gai việc thường

Có phen trải dầu sương dãi nguyệt
Ba thu tròn mong quyết quy không

Tứ bề những hổ lang ác thú
Vật đều cùng mến chúa hôm mai
Đua nhau trăm giống nghìn loài
Dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu
Trải mười thu giải dầu dương nắng
Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay
Chúa hiềm vì nỗi riêng tây
Ai ngờ cơ tạo vần xoay bởi trời

Trên dương thế có người nho sĩ
Văn tú tài Liễu nghị là tê
Trẻ thơ nhờ ấm thung huyên

Soi kinh nấu sử hằng chuyên một mình

Vừa gặp thuở thần kinh hội thí
Dặm đường trường Liễu Nghị trẩy ra
Vũ môn mong nhảy đạt ba
Chỉ hiềm con tạo xuy ra quải người

Đi tới đó đầu nơi non quạnh
Bóng ác tà sương lạnh trời hôm
Đầy ngàn hoa quả xanh um
Trước cành liễu rủ, sau chìm đào phai

Lòng quân tử đeo đai cảnh vật
Nhác thấy người tư chất dung nhan
Má đào châu lệ chứa chan
Nỉ non tấm tức khóc than một mình

Chàng trông thấy sự tình cảm kích
Chúa ngập ngừng hỏi khách rằng nay
Non cao rừng vắng chốn này
Cớ sao quân tử đến đây lạc loài

Bây giờ đã trăng soi ác lặn
Sao chàng còn thơ thẩn có sao
Mười năm đèn sách công lao chuyên cần

Hội long vân hiềm chưa gặp gỡ
Sự duyên này cơn cớ bởi đâu
Dám xin kết nghĩa trần châu
Kẻo lòng quân tử đeo sầu dưới trăng

Chúa nghe nói dùng dằng khôn siết
Mới nhủ chàng cả quyết sao nên
Thiếp nay người dưới thoải tiên
Nghiêm đường trước đã định duyên giai kỳ

Khăng khăng giữ đạo tùy sau trước
Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây
Bỗng không gắp lửa bỏ tay
Giep oan thất tiết đem đầy mười đông

Phiền quân tử tin không vàng đá
Sự duyên sự này thiếp há đơn sai
Chàng rằng vâng được như lời
Dẫu rằng bể rộng sông dài quản đâu

Nhờ đèn nguyệt đêm thâu sáng tỏ
Giãi tấc lòng thề có cao xanh
Hàn sơn nghe vắng chuông kình
Kim ô bóng đã tỏ hình bãi dâu

Chúa hiềm nỗi nấy lâu oan ức
Phó kim thoa cùng bức thư phong

Có thư rằng
Nữ tiên thủ bút
Bái tiến cửu trùng
Lạy vua cha cao ngự long cung
Xin chúc chiếu mở lòng nhân thứ

Kể từ ngày tái giá tòng phu
Việc tảo tần hằng dự không sai
Nhớ đến khi ngọc kính đầu mai
Lời kinh giới dám sơn sai cùng phụ tử

Vì Thảo Mai ra lòng giáo dở
Trá đồ thư làm cớ gieo oan
Kính Xuyên chàng chẳng xét ngay gian
Đem đày chốn lâm sơn viễn thú

Đêm ngày vò võ chiếu đá màn mây
Bạn đèn giăng quạt gió làm khuây
Mượn núi cỏ ngàn cây vui thú

Nhân duyên kỳ ngộ
Gặp một chàng tuấn tú nho phong
Hội long vân ngự thủy phùng
Duyên cầm sắc bỗng động lòng quân tử

Lòng còn ngần ngại mới ngỏ lời
Bởi tại sự duyên
Vốn tôi nay người dưới thủy tiên
Sớm đã kết Kính Xuyên làm nghĩa cả

Không ngờ chàng lòng chim dạ cá
Nghe Thảo Mai nên đôi ngả sấm thương
Và tôi nay như chim yến lạc đàn
Phải cung đạn đã sợ làm gỗ vậy

Vì chàng ở trước sao sau vậy
Đem chén son thề với khuôn xanh
Có thiên thanh địa bạch chứng minh
Giao loan mới cầm lành xin tái tục

Chàng Liễu Nghị tòng tâm sở dục
Chiếc kim thoa phó trúc cùng chàng
Máng tuyên thề mấy bức từ chương
Dâng về tới đền vàng thủy phủ

Kính trình vương phụ thấm xét ngũ thầm
Nguyện cùng chàng kết nghĩa trăm năm
Cho vẹn chữ sắt cầm tảo hợp
Nỗi niềm giao ước tạc dạ ghi lòng

Dầu mà ai phụ nghĩa quên công
Soi xét có đôi vầng nhật nguyệt
Mặc sự trần ai hương nguyệt hạ
Tự phụ băng thán đáo hùng hà trung

Dặn chàng ra mãi bể đông
Tới đâu hễ thấy ngô đồng cây cao
Lấy kim thoa gõ vào cây ấy
Dưới thủy tề nghe thấy không lâu
Trong cơ ứng biến nhiệm màu
Mặc dầu lời ngỏ mặc dầu như trao
Chàng nghe nói tiêu hao sau trước
Dạ bùi ngùi chân bước đường thông

Bể đào lai láng xa trông
Nửa lo nỗi chúa nửa lòng sự duyên
Sông Ngân Hán băng miền thẳng trỏ
Tới ngô đồng/tay gõ vừa thôi
Tự nhiên chuyển động phong lôi
Giữa dòng trông thấy một đôi bạch xà

Chàng trông thấy sự đà ứng hiện
Mới bày lời chúa kiến phân minh
Bạch xà thoát xuống động đình
Sai lên rẽ nước dòng xanh rước chàng

Đón chàng xuống đền vàng thoải phủ
Thấy triều thần văn võ đôi bên
Tiêu nhiều nhã nhạc dưới trên
Tả bày lưu liếc hữu chen long xà

Kim quy xứ chầu tòa ngọc bệ
Đón ra mời Liễu Nghị vào trong
Chàng quỳ dâng bức thư phong
Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau

Trách Kính Xuyên cơ cầu độc giữ
Mới truyền đòi trưởng tử Sích Lân
Phán rằng chúa phải gian truân
Sai lên đón rước thủy quân chớ chầy

Lời vương phụ xuyên ngay dục kíp
Sích lân bèn hóa phép thần thông

Bể đào nổi trận mênh mông
Khắp loài thủy tộc đều cùng hiện ra
Sấm sét vang mưa sa chớp giật
Quỷ cùng tà tan mất nơi nơi

Chúa tiên về tới long giai
Kính Xuyên bắt tội Thảo Mai đem đày
Công cán này ai tầy Liễu Nghị
Phong cho làm quốc tế Thủy Quan

Chàng từ vâng lệnh thiên nhan
Duyên ưa phận đẹp, chức ban trọng dùng
Mái thiên cung an bài tự trước
Kẻ phàm trần bỗng gặp sánh tiên

Chàng từ kim cải bén duyên
Có dang trí tuệ có quyền anh linh
Dầu ai phải bất bình mỏi mệt
Tấm lòng thành lễ yết tạ qua

Dù ai tiến cúng hương hoa
Tiền tài lưu loát cửa nhà khang ninh

Đã nên đấng anh linh kỳ diệu
Khắp trong triều nhượng hiệu tôn ngôi
Dám xin những sự đã rồi
Xin đừng nghĩ ngợi dông dài chi đây

Kìa Vũ Thị thảo ngay một tiết
Chàng Trương Sinh chẳng biết ngay gian

Bóng đèn nghe trẻ nói oan
Làm cho thiếu nữ hồng nhan thiệt mình
Đã lên đấng anh linh liệt nữ
Trách chi người vụng xứ chấp lê
Bằng nay tiên chúa sinh chi
Dám soi gương trước mà suy sự lòng
Rũ sạch không mọi niềm tân khổ
Nương uy trời tế độ sinh linh

Đời đời nức tiếng thơm danh
Biển vàng ghi tạc sử xanh đòi truyền
Kiêm ngũ phúc dâng lên cõi thọ
Nước trị thường thánh chúa hưng long
Mẫu về trắc giáng điện trung
Khuông phù đệ tử hưng long thọ trường

hoa lê

Trên đây là 3 bản văn Mẫu đệ Tam đã được Tín Ngưỡng Việt sưu tầm để gửi đến các bạn. Kính chúc các bạn luôn mạnh khỏe và gặt hái được nhiều may mắn trong cuộc sống.

Xem thêm:

Hoa sen vàng
Giới thiệu về Tác Giả

Nguyễn Hưng hiện đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Mang trong mình lòng đam mê tìm hiểu văn hóa truyền thống, anh dành sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Với anh, tín ngưỡng không chỉ là nét đẹp văn hóa mà còn là sợi dây kết nối thế hệ, lưu giữ những giá trị tinh thần quý báu của dân tộc. Trên hành trình khám phá, Nguyễn Hưng luôn nỗ lực nghiên cứu, chắt lọc và chia sẻ những kiến thức bổ ích về tín ngưỡng Việt Nam đến với độc giả.