Cùng Tín Ngưỡng Việt tìm hiểu đầy đủ và chi tiết về Tín Ngưỡng Đức Thánh Trần. Bài viết này là bản nghiên cứu “Tín ngưỡng Đức Thánh Trần” của TS. Phạm Quỳnh Phương, Viện Nghiên cứu Văn Hóa.
Đức Thánh Trần là một hiện tượng đặc biệt của đời sống văn hóa dân gian người Việt. Nó như một minh chứng tiêu biểu về mối liên hê giữa các yếu tố lịch sử và dân gian trong các hiện tượng văn hóa dân gian.
Bên cạnh khuynh hướng lịch sử hóa huyền thoại về giới tự nhiên còn có một khuynh hướng khác, đó là huyền thoại hóa cuộc đời và những chiến công của các nhân vật lịch sử. Ở đây những hồi ức về lịch sử, đậm màu sắc dân gian được dân chúng bảo tồn, tiềm ẩn trong cõi sâu thẳm của tâm linh, và được truyền tụng từ đời này sang đời khác với một vòng hào quang thần thánh. Trong dòng tâm thức sùng kính đến mức thần hóa những người có công với nước với làng, người Việt đã tôn Thánh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị anh hùng dân tộc gắn liền với chiến công lẫy lừng của quân dân nhà Trần thế kỷ XIII ba lần đánh bại quân giặc Nguyên Mông. Đặc biệt hơn, vị Thánh cao cả này đã có được một dòng tín ngưỡng – phụng thờ: tín ngưỡng Đức Thánh Trần.
Không gian thiêng của Thánh trải dài suốt từ Bắc đến Nam. Thời gian thiêng, theo sử sách ghi chép, cũng đã vượt qua bảy thế kỷ với bao biến động thăng trầm. Dù các lớp phù sa văn hóa chồng xếp, người ta vẫn có thể nhận ra những dấu ấn vật chất của tín ngưỡng thông qua một khối lượng khá lớn các truyền thuyết, di tích phụng thờ và các sinh hoạt lễ hội xoay quanh nhân vật lịch sử Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Trong hệ thống thần linh của người Việt, Đức Thánh Trần là một nhân thần – một vị THẦN-NGƯỜI có thật trong lịch sử. Ông mang tên tuổi, quê quán gốc tích, hành trạng khá đầy đủ. Việc dân chúng nhiều đời suy tôn ông, huyền thoại hóa cuộc đời ông, dù màu sắc dân gian có đậm nét đến thế nào cũng vẫn bắt nguồn từ những tư liệu xác thực của lịch sử.
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn. Ông sống trọn vẹn trong thế kỷ XIII, mất ngày 20 tháng Tám, không rõ thọ bao nhiêu tuổi. Căn cứ vào gia phả họ Trần, các thư tịch Hán Nôm, có thể có nhiều giả thuyết khác nhau. Nhưng dựa trên tuổi của thân phụ-thân mẫu, anh trai, năm lập gia đình và đặc biệt là năm tham gia trận mạc, người ta dự đoán ông sinh trong khoảng từ 1230 – 1234, nghĩa là ông ra đời sau khi nhà Trần đã khởi nghiệp (1226) và phụng sự bốn đời vua Trần thịnh trị nhất.
Với dòng dõi tôn thất, ông là con trai thứ của Trần Liễu, anh trai vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Lúc mới sinh “có người thầy tướng trông thấy bảo rằng “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, xem khắp các sách, có tài văn võ[1] . Ông soạn sách Binh thư yếu lược (Đại Việt sử ký toàn thư gọi là Binh gia diệu lý yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Chiến lược quân sự của Trần Quốc Tuấn là chiến lược sáng tạo hợp lý với những dân tộc nhỏ yếu trong cuộc đấu tranh chống một kẻ thù mạnh hơn gấp bội.
Trần Quốc Tuấn không chỉ là một nhà lý luận quân sự giỏi, mà còn là một vị tướng tài ba nơi trận mạc. Chức vụ thống lĩnh quân đội do vua phong đã được ông gánh vác xuất sắc và đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới thắng lợi rực rỡ của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần hai và lần ba.
Ông là người có trí, có dũng. Cũng vì vậy mà giặc Bắc “khét tiếng ông, không dám gọi tên mà gọi là An Nam Hưng Đạo Vương”[2].Ông cũng là người có trung có hiếu. Câu nói khảng khái “Bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi hãy hàng” biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của ông đối với đất nước. “Khoan thư sức dân là kế sâu rễ bền gốc” là chủ trương chính trị tiến bộ của triều Trần cũng do chính ông đề xướng. Đặc biệt còn phải nhấn mạnh tới lòng trung và cũng là “đại hiếu” của ông theo quan niệm Nho gia. Đặt quyền lợi của đất nước lên trên hết, thấu hiểu non sông xã tắc chỉ vững bền khi “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức” nên chính ông đã từ bỏ mối thù riêng của cha để hết lòng phụng sự đất nước, chủ động giao hảo, gạt bỏ hiềm riêng để tạo nên sự đoàn kết – sức mạnh của vương triều và cũng là của dân tộc. Đối với người dưới, Trần Quốc Tuấn là vị tướng sống có tín nghĩa, biết thu phục và trọng dụng người hiền tài. Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Trần Thì Kiến…là những dũng tướng, trung thần như thế.
Giữ lòng nhân ái với người, trung hiếu với quốc gia, tín nghĩa với anh em tướng sĩ, nhưng sau chiến thắng chống quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng, dù có công rất lớn, Trần Quốc Tuấn vẫn rời Thăng Long, thanh thản về sống ở thái ấp Vạn Kiếp, nơi ông đã lập vườn Dược Sơn trồng cây thuốc. Ngay lúc ốm nặng thập tử nhất sinh, ông vẫn canh cánh nỗi niềm với đất nước, tâu lên vua kế sách sâu rễ bền gốc. Khi ông mất, vua Trần Thánh Tông làm bài văn bia ở sinh từ ví ông với Thượng phụ (tức Lã Vọng đã từng giúp Chu Vũ vương) và tặng danh hiệu “Thái sư thượng phụ, thượng quốc công, Nhân võ Hưng Đạo đại vương”. Sử thần Phan Huy Chú sau này đã viết lời án: “Danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương không mấy đời có; kiêm cả văn võ, thừa trí dũng, dựng nên công lao sự nghiệp kỳ vĩ mà giữ vững trung nghĩa cùng một hàng với Quách Tử Nghi. Ông không những là anh hùng của một thời đại mà cho đến các bậc tướng thần cổ kim cũng ít ai bì kịp” [3].
Với những chi tiết đặc biệt trong tiểu sử, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã bước vào đời sống dân gian và qua từng giai đoạn lịch sử, dường như hồi ức về cuộc đời ông lại có thêm những chi tiết mới – đậm màu sắc huyền thoại. Nếu như trong chính sử, ông là một vị tướng tài, thì trong tâm thức dân gian, ông được hình dung như một vị Thánh. Chúng ta bắt gặp điều này rõ nét trong các nguồn tư liệu Hán Nôm, kho thần tích, thần sắc, các văn bia, câu đối, các bài văn chầu dùng khi hầu Đức Trần Triều, hoặc từ các truyền thuyết truyền miệng trong các làng quê.
Trong các tư liệu dân gian, sự sinh hoá của Đức Thánh Trần được hình dung tương đối thống nhất. Mẹ Trần Hưng Đạo là Thiện Đạo quốc Mẫu nằm mơ thấy có “Thanh tiên đồng tử” (một số sách chép là “em bé áo xanh”) đầu thai xin được làm con. Về việc giáng trần này, có sách chép thêm: lúc bấy giờ có một người tên là Nguyễn Sĩ Thành đã chết, tự nhiên sống lại, kể chuyện mình đã nghe khi ở trên trời: ở huyện Đông Triều có người con gái họ Nguyễn, vợ của một thương khách ở Phúc Kiến, mơ thấy giao hợp với giao long, về sau đẻ ra một đức con – chính là kẻ sau này gây loạn cho đất nước. Thượng đế nghe tin, bèn cho Thanh tiên đồng tử có Kim đồng Ngọc nữ hộ vệ đi xe mây xuống phương Nam trừ họa giúp dân lành [4].
Trùng hợp với chi tiết này, theo “Ngọc phả nhà Trần” thì Việt điện u linh chép: “Thời kỳ đầu của nhà Trần, ở địa phận sao Dực, sao Chẩn có một dải khí trắng bốc lên đến trời. Thần Tản Viên thấy thế biết tới đây sẽ có nạn ngoại xâm, bèn tâu lên Thượng đế. Thượng đế hỏi “Ai có thể vì Trẫm quét sạch dải khí trắng đó, sẽ cho mang theo phi thần kiếm, cờ ấn, tam bảo của Lão Tử, Ngũ tài của Thái công giáng hạ vào nhà thân vương làm một vị danh tướng khi mất trở thành phúc thần không?`. Bấy giờ có Thanh tiên đồng tử xin đi”[5].
Nhiều tài liệu khác ghi, khi Trần Hưng Đạo ra đời, trong nhà tràn ngập hương thơm và ánh sáng. Một vị đạo sĩ, do coi thiên văn thấy có một vị tướng tinh rơi xuống, liền đến xem mặt Trần Quốc Tuấn. Khi nhìn thấy, vị đạo sĩ vội lui xuống, vái lạy nói: “Người này tốt lắm, về sau cứu nước giúp đời làm sáng sủa cho non sông đó”. Vương đầy một tuổi đã biết nói, năm, sáu tuổi đã biết làm thơ ngụ ngôn, bày chơi đồ bát trận, thông minh xuất chúng.
Như vậy, trong tâm thức dân gian, Trần Hưng Đạo có nguồn gốc trên thượng giới. Dân gian đã lắp ghép thêm vào tiểu sử của ông câu chuyện đầu thai – một mô típ khá phổ biến trong các câu chuyện dân gian, cũng là để lý giải căn nguyên của sự siêu phàm.
Nếu như Hưng Đạo Vương do Thanh tiên đồng tử đầu thai, thì khi mất đi, theo cảm nhận của dân gian, cái chết của ông cũng không thể bình thường. Trước khi ông mất, xem thiên văn thấy một vị tướng tinh cực to bay từ đông bắc sang tây nam rồi sà xuống đất, sáng lóe ra 10 trượng. Trong Trần thị gia huấn, việc mất của Hưng Đạo Vương được miêu tả: “Vào ngày 18/8 năm Hưng Long thứ 8 (1300), Vương đang tụng kinh ở trên núi, nghe nói chị mình mắc bệnh, bèn xuống hỏi thăm. Bà chị nói ngày tới sẽ về tiên tổ, Vương đáp “em còn chút việc bận, chị hãy đợi em đến sáng 20 cùng đi một thể”. Đến ngày đó, Vương không có bệnh gì mà mất. Trước khi mất, Vương dặn dò các con rằng: “Khi ta sống ba lần đánh quân Nguyên giết hại chúng rất nhiều, nên sau khi ta mất, họ sẽ tìm mộ ta. Trong tháng này, bí mật chôn ta ở vườn An Lạc, giả nói rằng an táng chị ta, táng xong nên để đá rất sâu rồi trồng cây lên trên. Sang tháng, về Tức Mặc phao tin ta mất ở đó rồi làm nghi thức an táng. Hài cốt phải dùng của viên quan sang trọng, chớ dùng của người thường dân, khó che mắt chúng. Ta đã dâng biểu tâu vua cho khu Bảo Lộc làm dân tạo lệ, lúc sống chưa từng đặt chân tới đó, không biết nay như thế nào. Vậy phải cho quan coi nơi nào đẹp đẽ hãy làm mộ giả và đốc việc chôn cất cho trang trọng mới che được con mắt ngờ vực của người ngoài”[6] (vì thế nay tại Bảo Lộc có một lăng ghi lăng mộ Hưng Đạo Vương, có quan tài bằng đồng nhưng tương truyền là của một viên bộ tướng).
1.2.2 Trong nhiều bản kinh như Trần Triều hiển thánh chính kinh, Đại hữu chân kinh, Hưng Đạo chính kinh bảo lục…đều có chép danh xưng Cửu Thiên Vũ Đế của Đức Thánh Trần. Bản Chính kinh Phạm Ngũ Lão được mở đầu bằng đoạn “Thánh Phụ dòng dõi võ tiên, núi non chung đúc, vũ trụ tạo linh. Thần dựa vào Nam Nhạc, ký thác Đông A, Vân La cố trạch, sinh vào mùa đông, Thanh Đồng xuất thế, Ngọc Đế khâm sai, trao cho Cửu Thiên nắm quyền Vũ Đế”[7]. Như vậy trong tâm thức dân gian, sau khi mất (hóa), Đức Thánh đã trở về Thiên đình nhận lệnh chỉ của Ngọc Hoàng phong là Cửu Thiên Vũ Đế với sứ mệnh diệt trừ yêu ma, tà đạo ở cả ba cõi Thượng giới (Thiên đình), Trung giới (trần gian), và Hạ giới (âm phủ). Với chức danh Cửu thiên Vũ Đế, Đức Thánh Trần của người dân Việt còn có quyền năng lớn hơn nhiều so với các vị Đế khác… Và, theo chuỗi suy tưởng của dân gian, vị Thánh là Tiên giáng trần cứu dân lành, sau khi hoàn thành sứ mệnh dẹp yên bờ cõi, trừ bọn yêu ma, lại quay trở về cõi Tiên và được phong Đế để tiếp tục hiển hóa và giúp dân giúp nước (âm phù).
Chi tiết được chú ý nhất và cũng đưa Trần Hưng Đạo có một vị trí đặc biệt trong tâm thức dân gian đó là câu chuyện liên quan đến Phạm Nhan. Chuyện Phạm Nhan được nhiều tài liệu Hán nôm ghi chép, như trong Công dư tiệp ký, Tang thương ngẫu lục, Trần Triều Hưng Đạo Vương truyện…vv. Chuyện Phạm Nhan được tóm tắt như sau: Nguyễn Nhan tên chữ là Bá Linh (ta thường gọi là Phạm Nhan). Một người Quảng Đông, sang buôn bán bên nước Nam, lấy vợ làng An Bài, huyện Đông Triều, sinh được Bá Linh. Bá Linh lớn lên theo cha về Tàu học hành giỏi, đỗ tiến sĩ triều nhà Nguyên. Y có phép tàng hình biến hóa thường vào cung trị bệnh cho cung nữ, nhưng hay tìm cách tư thân với cung nhân. Sau lộ chuyện, chúa Nguyên bắt được định án trảm quyết. Để lập công chuộc tội, Bá Linh tình nguyện xin đi làm hướng đạo đánh Nam quốc. Vì cao tay phù thủy nên hắn đã gây nhiều sóng gió cho quân đội ta. Hưng Đạo Vương sai người đi bắt, nhưng cứ bắt được thì hắn lại trốn thoát, chém đầu này lại mọc đầu khác. Chỉ khi đích thân Hưng Đạo Vương cầm kiếm chém thì Phạm Nhan mới chịu thua. Trước khi bị hành hình, Phạm Nhan có xin Hưng Đạo Vương: “Phải cho tôi ăn gì chứ”, Vương giận bảo: “Cho mi ăn máu đẻ của đàn bà”. Bởi vậy sau khi chết, hồn hắn đi đâu gặp sản phụ thì lập tức hớp hồn họ. Những người đàn bà đó sẽ bị ốm liên miên không thuốc gì chữa khỏi khiến họ rất sợ hãi. Người bệnh thường đến đền thờ Trần Hưng Đạo, lấy chiếu cũ trong đền, bất thần bắt người bệnh nằm lên, rồi đem chân nhang đốt ra tro quậy nước cho uống thì sẽ khỏi. Có người mới chỉ mang chiếu từ đền Vương về nhà thì bệnh cũng đã thuyên giảm. Chính vì thế, người ta cảm nhận được anh linh kỳ diệu của Trần Hưng Đạo.
Trong sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề có bài “An Bài xã dâm từ khả húy”(nên phá huỷ đền thờ nhảm nhí ở xã An Bài), có thêm một số chi tiết khác. Chẳng hạn, có hai người đánh cá đùa cợt rủ hồn Bá Linh đi chơi, họp thành nhóm ba người, nên người ta gọi bọn chúng là Tam hồn. Hễ khi muốn chòng ghẹo một phụ nữ, họ gọi tên Bá Linh và chỉ tay vào người, người ấy sẽ bị ma ám. Vì sợ hãi. họ phải lập miếu thờ.
Theo sách Thiên nam ngữ lục, Bá Linh là con của Long Vương. Sau khi bị Trần Hưng Đạo chém đầu, hồn Bá Linh trở về thuỷ phủ khóc lóc với cha. Long Vương vì thương con nên dùng phép biến hắn thành ba con quỉ cho quay lại dương gian và được gọi bằng ba cái tên: Nguyễn Ngông, Nguyễn Nghênh và Nguyễn Bá Linh. Ba con quỉ này thường trêu ghẹo đàn bà con gái, giở mọi trò quỉ quái. Nhân dân gọi chung là quỉ Phạm Nhan. Theo tư liệu của phó giáo sư Vũ Ngọc Khánh, từ Thanh Hóa trở vào, Nguyễn Ngông, Nguyễn Nghênh còn được gọi là Ngô Văn Ngạo hay Hoàng Văn Trọc [8].
Ở vùng Kiếp Bạc có lưu truyền câu chuyện Phạm Nhan gắn với công lao của một bà hàng cơm (nay vẫn còn nghè thờ cách đền Kiếp Bạc chừng 100m). Nhờ bà làm nội ứng nên Hưng Đạo Vương đã dùng chỉ ngũ sắc và đồ dơ bẩn để phá được tà thuật. Trước khi chết, Phạm Nhan có xin Hưng Đạo Vương chém hắn thành ba đoạn, một đoạn vứt xuống sông, một đoạn vứt lên bờ, còn một đoạn vứt lên rừng. Vương cho phép làm theo lời cầu xin ấy. Theo truyền thuyết, đoạn vứt xuống sông biến thành đỉa, đoạn vất lên bờ biến thành muỗi, đoạn vứt lên rừng biến thành vắt. Ngày nay những vật đó thường được dân gian gọi là giặc Phạm Nhan [9].
Như vậy, chuyện giặc Phạm Nhan bị Trần Hưng Đạo trấn áp, tiêu diệt là chi tiết phổ biến trong hầu hết các truyện tích dân gian. Ngay truyền thuyết về việc ra đời của Đức Thánh – Thanh tiên đồng tử – cũng đã có mạch nối với câu chuyện Phạm Nhan. Thanh tiên đồng tử giáng trần để trừng trị đứa con của giao long – gây họa cho dân lành, hay có sứ mạng để quét sạch dải khí trắng- điềm báo đất nước sẽ bị họa xâm lăng. Chính vì thế, theo logích cảm xúc dân gian, vị tiên áo xanh ấy có được sức mạnh kỳ diệu bởi vì ngay khi sinh đã được Thượng đế “cho mang theo phi thần kiếm, cờ ấn, tam bảo của Lão Tử, ngũ tài của Thái công” . Và cũng cái logíc đó đã tạo nên tính thiêng của Đức Thánh và niềm tin tưởng mãnh liệt của các tín đồ.
Trong những truyền thuyết dân gian về Hưng Đạo Vương có biểu tượng thanh kiếm thần được khai thác nhiều. Truyền thuyết của nhân dân vùng Thụ Khê (Hải Phòng) kể rằng sau khi chiến thắng, Hưng Đạo Vương đã quay lại và cắm một thanh kiếm trên đỉnh núi Thụ Khê – nơi mà xưa kia Vương đã lập đồn binh – để ghi nhận công lao của nhân dân địa phương.
Thanh kiếm dường như là một vật thiêng đã tạo cho Đức Thánh Trần một sức mạnh siêu phàm, bởi vậy mọi câu chuyện dân gian về ông đều gắn liền với kiếm thần. Trong ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo ở làng Trung Bản (Yên Hưng, Quảng Ninh), tượng ông được tạc với tư thế chống kiếm, búi tóc bị xổ. Truyền thuyết vùng Kiếp Bạc còn kể, sau khi đất nước thái bình, Hưng Đạo Vương về nghỉ ngơi tại Kiếp Bạc. Một hôm, khi dạo chơi trên sông Thương, gần núi Dược Sơn, Hưng Đạo Vương cho dừng thuyền, rút kiếm khỏi bao và nói: “thanh kiếm này đã gắn bó với ta cả cuộc đời, đã từng dính máu nhiều quân giặc Thát, đã phải bôi phân gà sáp, vôi tôi và bồ hóng bếp để chém đầu tên Phạm Nhan dơ bẩn. Nay nhờ nước sông gột rửa sạch những vết nhơ”. Nói rồi Vương thả thanh kiếm xuống dòng sông. Hiện nay trước cửa đền Kiếp Bạc có nổi lên một bãi bồi chạy dài giống hình lưỡi kiếm, dân gian hình dung đó là thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo.
Hưng Đạo Vương đã nhiều lần được nhận sắc phong Thượng đẳng tối linh thần của các vương triều, được Nhà nước chính thức đưa vào thờ phụng trong các đền miếu. Sách Đại Nam nhất thống chí hay Nam Định dư địa chí đều chép: “Năm Minh Mạng thứ 4, cho được thờ vào miếu đế vương các đời. Năm Minh Mạng thứ 16, cho được thờ vào vũ miếu”. Nhưng sắc phong lớn nhất mà người dân Việt trong suốt bẩy thế kỷ qua đã phong tặng là ĐỨC THÁNH TRẦN, là VUA CHA, là ĐẾ. Cũng vì thế, vị Thánh này đã có ảnh hưởng khá lớn trong chiều sâu tâm tưởng và đời sống hàng ngày của những người dân lao động đất Việt.
Căn cứ vật chất rõ nhất để khảo sát không gian thiêng của tín ngưỡng Đức Thánh Trần là các di tích thờ cúng. Mặc dầu địa bàn hoạt động khi sinh thời của Trần Hưng Đạo là vùng đất Bắc, nhưng người ta nhận thấy ông được thờ phụng ở rất nhiều nơi. Vùng Châu On, Lạng Sơn hay cả ở châu Định Hóa, Thái Nguyên xa xôi cũng có những di tích lưu giữ thần tích thờ ông. Về phương Nam, Côn Đảo, Vũng Tầu đều có đền thờ. Di tích thờ Trần Hưng Đạo lớn nhất ở thành phố Hồ Chí Minh là đền Hưng Đạo Vương ở số 36 đường Võ Thị Sáu, phường 4, quận 1. Đền được xây dựng năm 1932 và mở rộng qui mô khang trang vào năm 1958. Ở cổng ngôi đền có dòng chữ Hán ghi :”Hiển thánh Trần triều Hưng Đạo Đại Vương linh từ”. Điều này cho thấy, ở đây cũng như ở nhiều nơi khác, người ta thờ Trần Hưng Đạo không đơn thuần vì ông là vị tướng tài, mà vì ông đã hiển Thánh, đã trở thành một vị Thánh trong tâm thức dân gian.
Tuy Trần Hưng Đạo đã được gia nhập vào nhiều điện thờ ở trên hầu khắp dải đất Tổ quốc – những nơi có dấu chân định cư của người Việt, nhưng, không gian thiêng của ông – vùng không gian cầu viện sự che chở phù trợ của ông một cách phổ biến nhất là xứ Nam (quê hương ông) và xứ Đông (thái ấp và địa bàn chiến trận). Trong bản thống kê do trường Viễn Đông Bác Cổ tập hợp năm 1930(“Thư mục thần tích thần sắc”) trong số 172 di tích có thần tích thần sắc của Trần Hưng Đạo (hoặc được thờ riêng, hoặc thờ chung với các vị thần khác như Quan Vân Trường, Mẫu Liễu Hạnh, quan Nam Hải, hay thần Cao Sơn, Pháp Vân, Pháp Lôi, hay Khổng Tử, Khổng Minh hoặc vài vị tướng lĩnh nhà Trần…) thì đã có 108 di tích thuộc xứ Nam (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình) và 48 thuộc xứ Đông (Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Yên).
Theo thống kê các di tích thờ Trần Hưng Đạo của các bảo tàng địa phương, ở Nam Định và Hà Nam – vùng đất phát tích của nhà Trần – có trên 200 di tích; Thái Bình có gần 40 di tích; Hải Dương và Hưng Yên gần 80 di tích, Hà Nội trên 50 di tích… Các địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình cũng có nhiều di tích thờ ông. Có nơi ông được thờ riêng, có nơi được phối tự cùng các vị thần khác
Ngoài những nơi thờ chính, Trần Hưng Đạo – Đức Thánh Trần còn được rất nhiều di tích thờ vọng. Con số nơi “thờ vọng” này rất khó thống kê chính xác. Thông thường, các đền thờ chính thường nằm ở vùng xứ Nam, xứ Đông. Còn ở các nơi khác như xứ Đoài, ông thường được thờ vọng bằng một gian thờ hoặc một ban thờ bên cạnh các ban khác..
Một điều rất đáng chú ý, Trần Hưng Đạo được phối tự trong hầu hết các điện thờ Mẫu dưới dạng ban thờ Trần Triều bên cạnh Tam toà Thánh Mẫu. Ngay tại Phủ Giầy, Nam Định- một trung tâm thờ Mẫu ở Bắc Bộ, tuy Lý Bí được coi là Đức Vua Cha nhưng Trần Hưng Đạo vẫn giành được một vị trí nhất định. Thậm chí đền Bắc Lệ thờ Mẫu Thượhg Ngàn ở Lạng Sơn cũng thờ ông. Ngược lại, trong những đền, điện thờ Trần Hưng Đạo, người ta cũng thấy sự hiện diện của hệ thống Tứ phủ. Căn cứ vào việc dân gian phối tự Đức Thánh Trần với các vị thần khác có thể nhận ra tính đa dạng trong tâm thức tôn vinh của dân gian đối với Trần Hưng Đạo: lúc thì ông trở thành CHA trong sự đối sánh với MẸ Liễu Hạnh; khi thì ông được đặt trong mối quan hệ với Tứ Pháp, lúc thì ông được thờ như một vị quan quân sự kiểu Quan Vân Trường, khi thì lại đơn giản như thờ cúng ghi công một anh hùng lịch sử….
Mặt khác, có thể thấy, hiện tượng “xin chân nhang” ở đền Kiếp Bạc, đền Bảo Lộc về để thờ vọng trong các di tích đã khiến cho không gian văn hóa của hiện tượng Đức Thánh Trần khá rộng. Nhất là khi khảo sát một số lượng khá lớn di tích thờ phụng Đức Thánh của các tư gia thường được gọi là tĩnh và điện. Tuy của tư gia “nhưng được dân chúng tới lễ bái trong các dịp tuần tiết sóc vọng, hoặc muốn cầu xin điều gì. Nhiều khi lễ bái rất đông, không kém gì một nơi thờ tự công cộng”[10]. Bài trí trong những ngôi điện này có nét đáng chú ý. Ban thờ thường có bài vị, tượng hoặc tranh vẽ Đức Thánh Trần, có thêm kiếm ấn. Trên mái điện thường cài rất nhiều roi dâu dùng để tra khảo tà ma. Có thể nói, Trần Hưng Đạo là một trong số rất ít nhân vật lịch sử được thiêng hóa trong một không gian rộng lớn như vậy.
Trong số các di tích “công cộng” tôn thờ Đức Thánh Trần, những di tích nổi tiếng nhất có Bảo Lộc, Cố Trạch ở Nam Định, Trần Thương ở Hà Nam, Kiếp Bạc ở Hải Dương, A Sào, Đồng Bằng ở Thái Bình – đây là những vùng đất gắn bó chặt chẽ nhất với cuộc đời và sự nghiệp anh hùng của ông. Nhân dân vẫn thường truyền tụng câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”.
Bảo Lộc trước đây có tên là đền An Lạc, thuộc làng Bảo Lộc, tổng Hữu Bị, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay thuộc xã Mỹ Phúc ngoại thành Nam Định. Tổng thể đền Bảo Lộc hiện nay bao gồm đền giữa thờ Hưng Đạo Đại Vương, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải thờ Mẫu, đằng sau là đền Khải Thánh thờ thân phụ, thân mẫu.Đền Bảo Lộc được xây theo hình chữ đinh ( ) với tiền đường 7 gian, trung đường 5 gian và hậu cung 3 gian. Trong đền thờ, từ ngoài vào trong, trước tiên là bàn thờ ngũ dinh, các quan Trần Triều, rồi đến tượng Hưng Đạo Vương bằng đồng, tiếp theo là bàn thờ con trai cả Hưng Vũ Vương Nghiễn và con rể Phạm Ngũ Lão. Trong hậu cung, tượng Hưng Đạo Vương bằng gỗ được đặt chính giữa, hai bên thờ hai vị: thầy dạy chữ và thầy dạy binh (binh pháp).
Khu di tích này còn bao gồm lăng mộ Trần Hưng Đạo được xây dựng ở đầu làng, cách đền Bảo Lộc chừng 600m, gồm một nhà dâng hương, một mộ có hai lần tường bao. Hai con hổ đứng gác cửa vào lăng được dân gian gọi là Thanh hổ đại tướng và Hoàng hổ đại tướng.
Cho đến nay chúng ta vẫn không thể biết “ống tròn đựng xương” của Vương ở đâu, nhưng dù sao, việc người dân An Lạc cho xây lăng Trần Hưng Đạo tại đây kèm theo câu chuyện để lý giải cho việc đó cũng bộc lộ một khía cạnh của tâm thức dân gian về vị Thánh này.
Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Sử sách đều ghi Hưng Đạo Vương mất ở Kiếp Bạc, nên câu ca “thác Trần Thương” không mang ý nghĩa chỉ là nơi mất mà là sinh phần – nơi gửi phần mộ lúc còn sống.
“Trần Thương” nguyên nghĩa là kho lương nhà Trần. Xưa kia, đây là vùng bãi sậy um tùm. Trên đường hành quân qua, Hưng Đạo Vương thấy thế đất đẹp và kín đáo, thích hợp cho việc đặt một kho lương. Sau khi chiến thắng, Vương trở về, đặt kho lương và cắm sinh phần tại đây, từ đó xuất hiện địa danh Trần Thương và các thôn thuộc xã Nhân Đạo như: Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu Mật… Như vậy, địa danh này đã có ngay từ thế kỷ XIII. Đền thờ Trần Hưng Đạo được lập ngay sau khi ông mất, nhưng kiến trúc ngôi đền hiện nay mang dấu ấn thời Nguyễn. Đền có ba cung: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, với nhiều đồ thờ cúng, hoành phi câu đối. Pho tượng đồng “Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương” được đặt trang trọng trong khám lớn ở cung đệ tam (hậu cung).
Ngoài Trần Thương, khi bàn đến các kho lương của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, cần phải nhắc tới địa danh đã từng được nhắc đến trong sử sách: A Sào. A Sào thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Sách Thái Bình địa dư chí ghi rằng: “Quốc Tuấn năm 18 tuổi (1250) được phong Thượng vị hầu, vâng mệnh đến trấn thủ ở khu A Sào, trang An Hiệp. Sau Hầu được triệu về kinh giữ chức Phụ chính rồi phong Hưng Đạo Vương”. Nhiều cứ liệu thần tích thần phả cũng như truyền thuyết cho thấy xưa kia Hưng Đạo Vương đã từng đặt một đại bản doanh ở đây và xây dựng nhiều kho gạo quanh khu vực A Sào, Đại Nẫm. Ngoài ra, A Sào còn là nơi rèn đúc vũ khí, nơi luyện binh. Trong đền cũng có tượng thờ Trần Hưng Đạo.
Trong số những ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo, lớn nhất là đền Kiếp Bạc. Kiếp Bạc là tên ghép hai xã Vạn Yên (làng Kiếp) và xã Dược Sơn (làng Bạc), thuộc xã Hưng Đạo huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Phần lớn cuộc đời Hưng Đạo Vương gắn bó với vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp để lập phòng tuyến trấn giữ mặt đông bắc tổ quốc. Trong kháng chiến chống Nguyên lần 2 (1285), Trần Hưng Đạo tập trung trên 20 vạn quân và hàng nghìn thuyền chiến ở Vạn Kiếp và đã lập một chiến công huy hoàng tại đây. Khi đất nước thanh bình, Vương lại về Vạn Kiếp để an nghỉ tuổi già và đây là nơi ông đã trút hơi thở cuối cùng .
Có thể nói, không nơi nào trên đất nước ta có nhiều địa danh lưu giữ dấu vết liên quan đến Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn như Kiếp Bạc. Người ta có thể chỉ đây là sinh từ (đền thờ khi Hưng Đạo Vương còn sống), đây là xưởng thuyền, kia là vườn thuốc, lò gốm, viên lăng…tất cả đều mang những kỷ niệm về Đức Thánh. Dược Sơn (Dược lĩnh cổ viên) là ngọn núi tương truyền nơi Vương cho trồng cây thuốc nam để cứu chữa cho binh lính và dân cư trong vùng. Cụm di tích này còn có hai ngôi đền mang tên Nam Tào, Bắc Đẩu nằm trên hai ngọn núi, đối xứng nhau qua đền Kiếp Bạc. Tương truyền đền có từ rất sớm, đền Nam Tào thờ quan Nam Tào cầm sổ sinh, đền Bắc Đẩu thờ quan Bắc Đẩu cầm sổ tử. Ở đây, quan Bắc Đẩu được đồng nhất với Dã Tượng, quan Nam Tào được đồng nhất với Yết Kiêu – hai vị tướng trung thành của Trần Hưng Đạo. Với những dấu ấn văn hóa lịch sử, hai ngôi đền này đã góp phần to lớn vào việc nâng cao giá trị của đền Kiếp Bạc.
Đền Kiếp Bạc được xây dựng trên khu đất bằng ở trung tâm thung lũng núi Rồng. Ngay sau khi ông mất (năm 1300), người ta đã cho xây dựng đền Kiếp Bạc, nhưng cùng với thời gian, dấu vết Trần và Lê đã mất. Ngôi đền hiện nay hoàn toàn mang dáng dấp thời Nguyễn, được trùng tu tôn tạo lớn vào cuối thế kỷ XIX, đầu XX. Thời tạm chiếm, đền bị huỷ hoại nhiều. Mãi đến đợt trùng tu sửa chữa lớn năm 1979, nhiều phần của đền Kiếp Bạc cũng như các di tích Nam Tào, Bắc Đẩu mới được dựng lại. Giữa sân đền có nhà Bạc chồng diêm tám mái, là nơi trình lễ trước khi vào đền chính. Hai bên sân, tả hữu Thành các và Giải vũ là nơi soạn lễ, chỉnh trang lễ phục trước khi vào lễ Thánh.
Sau nhà Bạc là đền chính. Đền kiến trúc theo kiểu chữ Đinh ( ), bao gồm tiền tế, trung từ, và hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian là nơi tiếp khách trình lễ. Trung từ đặt ngai và bài vị của bốn con trai Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Hiến, Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần Quốc Uy và ban thờ Phạm Ngũ Lão. Hậu cung có bốn ban thờ: Đức Thánh Trần; Nguyên từ Quốc Mẫu Thiên Thành công chúa (phu nhân Trần Hưng Đạo); đệ nhất Khâm từ Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa (con gái thứ nhất, vợ Trần Nhân Tông); đệ nhị nữ đại Hoàng Anh nguyên quận chúa (vợ Phạm Ngũ Lão). Các pho tượng đồng được đặt trong các khám lớn sơn son thếp vàng và nhiều hình trang trí. Đặc biệt, tượng Trần Hưng Đạo đặt trong khám lớn, xung quanh khám phủ vải đỏ. Tượng ngồi trên bục dáng uy nghi, hai tay đặt trên đùi, tay phải úp xuống, tay trái ngửa lên cầm hạt ngọc.
***
Những di tích lớn thờ Trần Hưng Đạo trên đây là những nơi có sắc chỉ thờ phụng của các vương triều. Theo tác giả Hoàng Giáp, trong các tư liệu Hán Nôm, với tư cách Cửu Thiên Vũ Đế, các đền thờ chính Trần Hưng Đạo được sắp xếp theo thứ tự: thứ nhất là Kiếp Bạc, thứ hai A Sào và thứ ba là Bảo Lộc. Các đền khác chỉ là vọng từ. Về sự ủng hộ của vương triều đối với các di tích, sách Trần Triều hiển thánh có chép: “Nhà vua coi đền như Vương miếu ngàn năm phụng thờ, nghi lễ như thờ Đức Khổng Phu Tử. Nhà vua thương nhớ đức Đại Vương không bao giờ nguôi, bèn sai thợ dùng gỗ bạch đàn hương tạc thành thần tượng Đại Vương, ngày đêm hương lửa phụng thờ. Phàm có quốc gia đại sự vua phải cầu xin. Chư vương khanh tướng, mỗi khi phụng chỉ ra trận, phải đến bái yết rồi mới xuất quân. Mọi việc cầu xin đều linh ứng”[11]. Rõ ràng, sự sùng tín của vương triều, sự bảo trợ của nhà nước trong việc sửa sang đền miếu, đôn đốc hương khói và tổ chức quốc lễ là một nguyên nhân quan trọng phần nào khích lệ sự phát triển nhu cầu tâm linh của dân chúng đối với Đức Thánh. Và nhu cầu ấy được thăng hoa trong một thời điểm đặc biệt: lễ hội giỗ Cha.
Có lẽ người dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ai cũng biết đến câu ca “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Theo lịch sử, Hưng Đạo Vương mất tại Kiếp Bạc ngày hai mươi tháng Tám. Tâm thức dân gian coi ngày mất của ông cũng chính là ngày “giỗ Cha” – người Cha thiêng liêng trong sự đối sánh với Mẹ – Mẫu Liễu Hạnh. Hàng năm vào tháng Tám âm lịch, người dân ở khắp mọi miền quê lại nô nức đi về Bảo Lộc, Kiếp Bạc, đền Đồng Bằng với tâm thức đi “giỗ Cha”. Bởi vậy, đây được coi là thời điểm thiêng nhất của Ngài.
Tại đền Bảo Lộc, theo truyền thuyết, Hưng Đạo Vương mất ngày 20/8 thì đến ngày 26/8 dân Tức Mặc, Bảo Lộc đã được phép đặt bát nhang thờ và bàn việc sửa nơi ở cũ thành đền thờ. Đền Bảo Lộc có hiệu là An Lạc Viên từ, đền Tức Mặc có hiệu là Cố Trạch linh từ. Cả hai đền đều do nhà Trần chịu trách nhiệm tế lễ và làm quốc tế. Trước ngày 20/8 làm lễ cáo, lễ xôi thịt lợn thịt gà. Sáng ngày 20/8, xã Tức Mặc sắm lễ tam sinh ở đền Cố Trạch, xã Bảo Lộc lễ tam sinh ở đền An Lạc rồi rước chân nhang về đền Cố Trạch. Vào khoảng cuối giờ Thìn, đầu giờ Tị rước bát nhang Vương sang lễ tại đền Thiên Trường, cuối giờ Tị rước về, sau đó rước kiệu bát cống từ đền Cố Trạch trở về An Lạc tế Thánh Phụ Thánh Mẫu vào đầu giờ Mùi. Tối ngày 20 lễ trừ thổ ôn, thổ khí, tà quỉ ở đền An Lạc cho đến tận sáng, trưa 21 lễ tạ ở đền. Trưa 21 dân Tức Mặc cũng rước Hưng Đạo Vương sang chùa Tháp tế vua Nhân Tông một tuần rồi rước lại, trời tối thì lễ tạ. Theo tác giả Dương Văn Vượng, dựa vào sách Trần gia phả ký năm Chính Hoà thứ nhất (1680) và lời kể của một số cụ trong họ Trần thì trong các kỳ lễ của nhà Trần ở Bảo Lộc rất hay lễ cá. Ví dụ, ngày lễ đầu năm (16 tháng Giêng) tế cá. Cá gồm một đôi cá triều đẩu (cá quả), 10 con long ngư (cá chép). Cá quả mỗi con một cân, cá chép mỗi con hai cân. Tất cả cá sống đựng trong 11 cái thùng sơn đỏ đặt trước bát nhang công đồng. Tế từ sáng đến trưa thì thả cá ở sông Hồng. Vào ngày lễ Tổ cũng tế 20 con cá chép một cân. Sau khi tế, chia cho 14 xã bên, mỗi xã một con thả ở ao làng, 5 con thả ao trước đền Thiên Trường, một con thả ao trước đền Cố Trạch. Đây có lẽ là những dấu vết gốc dân chài (thờ cúng cá) của họ Trần.
Cũng như ở Bảo Lộc, tại đền Kiếp Bạc, lễ hội Đức Thánh Trần thực chất diễn ra ngay từ đầu tháng Tám. Người ta kéo về đây từ mọi ngả đường, trên bến dưới thuyền. Xưa kia vào ngày kỵ Trần Hưng Đạo, các quan trong triều đình đều đến đền dự và dâng hương. Ngày nay, vào 10/8, dưới sự chứng kiến của Uỷ ban nhân dân và một số cấp chính quyền, người ta làm lễ mở cửa đền, bắt đầu lễ hội. Ngày 18/8, nhà nước tổ chức dâng hương. Lễ chính tiến hành vào ngày 20/8 thường do làng Vạn (tổng Trạm Điền), làng Bạc (tổng Chi Ngại) chịu trách nhiệm. Làng Vạn xưa có tám giáp, mỗi giáp phải chuẩn bị một con lợn khoảng 80 kg làm sạch, để sống và một cỗ bánh đường đặt lên mâm tập trung trước Nghi môn. Sau phần tế lễ, đám rước được cử hành. Điều đáng chú ý là có nghi thức rước kiệu trên sông nhằm tái hiện lại trận thắng thủy chiến oai hùng của Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng. Vào chính hội 19/8, các thuyền tập trung đông đặc ở bến sông để chuẩn bị cho đám rước. Kiệu thờ Hưng Đạo Vương được rước đặt lên thuyền rồng rời bến với một loạt những thuyền hộ tống trang trí rất đẹp, trong tiếng reo hò cổ vũ của đông đảo nhân dân tham gia. Sau một thời gian diễu hành trên sông, đoàn thuyền lại quay trở về vị trí cũ và kiệu thờ lại được rước vào yên vị trang trọng trong đền. Ngoài ra, trong ngày hội, tuỳ năm mà người ta tổ chức nhiều trò chơi khác, ví dụ bơi trải, đua thuyền, múa rối nước, cờ người, hội vật…sôi nổi hấp dẫn.
Ngoài Kiếp Bạc và Bảo Lộc, hàng năm Lễ hội tháng Tám giỗ Cha còn diễn ra ở hầu hết các di tích thờ Đức Thánh Trần dưới các hình thức tế lễ cúng bái, trong đó khá tiêu biểu là đền Đồng Bằng, Thái Bình:
Dù ai buôn xa bán xa
Hai mươi tháng Tám giỗ Cha thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Hai mươi tháng Tám thì về Đào thôn
Đền Đồng Bằng xưa thuộc thôn Đào Động, tổng Vọng Lỗ huyện Phụ Phượng, nay là xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình. Theo thần tích của đền thì đền Đồng Bằng trước chỉ là một miếu nhỏ thờ thành hoàng làng Đào Động vốn là thủy thần, được gọi là Đức Vua Đệ Nhất, ngày mất 28/8, có sắc phong từ thời Vua Hùng”Trấn tây An Vĩnh Công Bát Hải đại vương”. Có lẽ vậy mà đền còn có tên là đền Bát Hải, đền Vua Cha. Hội đền mở vào ngày 16/8, chính hội vào 20/8 – ngày mất của Trần Hưng Đạo và kéo dài đến ngày 28/8 – ngày mất của Đức Vua đệ nhất. Như vậy, tháng Tám giỗ Cha là giỗ “Cha Trần Hưng Đạo” hay “Cha Bát Hải đại vương” ?
Tương truyền, vào thế kỷ XIII, Hưng Đạo Vương đã đến thăm đền và đã có thời gian nghỉ tại đây (một số truyền thuyết khác chỉ nói đến việc ghé chân của các tướng lĩnh nhà Trần). Xung quanh khu vực đền Đồng Bằng cũng còn nhiều dấu vết của cuộc kháng chiến thời Trần, nhiều di tích thờ các tướng lĩnh đời Trần. Bởi vậy mà từ sau thế kỷ XIII, từ chỗ chỉ là một đền thờ thủy thần, với sức hút của tâm thức đề cao anh hùng cứu nước, người dân đã đưa Đức Thánh Trần vào đền thờ và lấy ngày mất của ông làm ngày chính hội. Hình thức hội đặc biệt nhất ở đền Đồng Bằng là tục đua thuyền, bơi trải mà một số người cho là có gắn với thủy quân nhà Trần. Nhưng chúng tôi muốn lưu ý tới hình thức hầu bóng, hát chầu văn ở đền của các con nhang đệ tử, các thanh đồng. Trong bài viết Phác thảo về đình và sự phụng thờ thần thành hoàng của các làng ở Bắc Kỳ, ông Nguyễn Văn Khoan đã nhận xét rằng: “Ba việc thờ phụng chính của dân gian chia theo nguyện vọng của quần chúng: thờ phụng các chư vị, thờ các tướng của Trần Hưng Đạo và thờ phụng các linh hồn ở dưới cõi âm, quỉ sứ. Những người chuyên thờ các chư vị là các bà đồng, những người chuyên thờ các ông tướng của Trần Hưng Đạo là các ông đồng hoặc các thầy pháp, nhưng người chuyên thờ các linh hồn âm phủ là các thầy bùa hoặc các thầy phù thủy”[12]. Như vậy, phải chăng đã có riêng một phái chuyên thờ Trần Hưng Đạo – Đức Thánh Trần?
Nếu như những người theo đạo của Bà Liễu Hạnh được gọi là đồng cốt (bà cốt, bà cô tí) thì những người theo Đức Thánh Trần được gọi là Thanh đồng: “Thanh đồng là những người thờ về đức Thánh Trần…Đàn bà sinh sản đau yếu, hoặc con gái hiếm muộn, thường cho là bệnh Phạm Nhan làm, hoặc là tiền kiếp phu thê ghen tuông hoặc là vì thạch tinh cốt khí yêu ma quỉ quái ám ảnh mà thành bệnh. Người có bệnh đem vàng hương giàu rượu đến cửa điện lễ bái, nhờ thanh đồng kêu khấn xin Thánh trừ tà cho”[13]. Trong Việt Nam văn hóa sử cương, ông Đào Duy Anh viết: “Những người chuyên thờ Thánh Hưng Đạo (Thánh Trần) thường gọi là thanh đồng hay ông đồng. Những ông đồng thờ ngài phải lập tĩnh trong nhà. Mỗi năm đến ngày 20 tháng 8, là húy nhật, các ông đồng phải tề tựu ở đền Kiếp Bạc tỉnh Hải Dương, hay ở đền Bảo Lộc, đền Tức Mặc ở Nam Định để lễ bái”[14] (từ “thanh đồng” phải chăng bắt nguồn từ nguồn gốc Thanh tiên đồng tử của Thánh?). Nói về cách các ông đồng trừ tà ma, Phan Kế Bính có nói tới hai cách. Cách thứ nhất, “người có bệnh ngồi đồng bịt cái khăn tay đỏ vào mặt, rồi thanh đồng cầm vài nén hương thư phù vào mặt mũi và đôi bàn tay người ngồi đồng, niệm chú một vài câu, lại có bọn cung văn đánh trống gõ phách đọc bài văn sai để ốp đồng một lúc thì người ngồi đồng lảo đảo, tà ma nhập vào mình như bị thôi miên. Thanh đồng quát mắng hỏi tra như quan tấn tù. Người ngồi đồng hoặc tự mình cầm vồ đập vào đầu mình, hoặc cầm bàn vả tát vào má, hoặc cầm roi đánh vào mình. Khi nào tà ma cung chiêu nhận tội thì thanh đồng truyền lịnh thánh bắt phải làm tờ cam kết, từ rày không được quấy nhiễu người ta. Trong tờ cũng ký tên điểm chỉ, rồi thanh đồng truyền làm tội gì, tà ma phải chịu, tờ cam kết ấy, người có bệnh lĩnh về mà dán trên chỗ nằm”[15]. Ông Toan Ánh còn viết “người ta bảo rằng dấu tay trên tờ cam kết tuy người bệnh in vào nhưng không là dấu của người bệnh, đó là dấu tay của con tà, so sánh với tay người bệnh khi hết bệnh thì không giống nhau”[16]. Có sách đã miêu tả: “Trong ngày hội này, trước sân đền đâu đâu ta cũng thấy cảnh tượng những người phụ nữ không đẻ con, hay sinh con nhưng không được, quỳ niệm thần chú. Một ông đồng mặc quần áo lòe loẹt, dắt cờ xanh đỏ quanh người, nhảy múa, gõ trống, khua thanh la để đuổi tà ma đang ẩn nấp trong người chị để làm hại. Một lúc, từ chỗ sợ sệt, chị ta cảm thấy mình bị thôi miên và bỗng nhiên như nhìn thấy hồn ma Phạm Nhan, chị lăn lộn, đập đầu xuống đất như để xua đuổi, đánh đập chính tà ma. Có người như không chịu đựng được đã ù té chạy ra sông, lao xuống dòng nước như để dìm chết hồn ma. Tới khi lả đi vì mệt, người ta vớt chị lên, thân thể rũ rượi, coi như hồn ma đã bị xua đuổi”[17].
Còn một cách trừ tà khác là khi thánh đã nhập vào thanh đồng, thì thanh đồng ra oai “cho mắt trần biết phép Thánh”, lấy lụa tự thắt cổ, nung đỏ lưỡi cày rồi xỏ chân vào, nấu dầu sôi uống rồi phun ra, hoặc cho cả nắm hương đang cháy vào miệng, xiên lình hay dùng dao rạch lưỡi. “Khi rạch lưỡi chảy máu thì phun ra một tờ giấy (để làm bùa gọi là dấu mặn), để cho người có bệnh đem về đốt ra lấy gio hòa với tàn hương nước thải mà uống, hoặc phát bùa để người ốm đeo vào mình”[18].
Ở đền Đồng Bằng, hầu bóng diễn ra tấp nập đặc biệt vào dịp hội. Trước khi hầu, hay hát chầu văn, họ thường khấn lạy mời Đức Thánh Trần và Đức Vua Đệ nhất (Bát Hải đại vương), và các vị tướng lĩnh của hai ngài về ngự. Các bản “Văn Triều Trần”, văn “Đức vua Bát Hải”…thường được sử dụng. Cách thức hầu về cơ bản giống với hầu Tứ Phủ, cả về trang phục, về âm nhạc và múa thiêng: cũng chùm khăn phủ diện mời thần linh nhập vào thanh đồng, nếu thần nhập thì sẽ tung khăn phủ diện (một số đệ tử cho biết, Quan bên hệ thống Trần Triều ra hiệu ngón tay cái, khác với Quan bên hệ thống Tứ phủ ra hiệu bằng những ngón khác). Trong lúc hầu, các cung văn sẽ trổ hết tài nghệ kể sự tích lai lịch của vị thần và tán tụng, ca ngợi. Ở đền Kiếp Bạc, thường hầu Tam toà Thánh Mẫu trước rồi đến Phủ Trần Triều (Đức Thánh Trần, Đệ tam hoàng tử-con trai Trần Hưng Đạo, hai cô con gái), sau đó mới đến các cấp trong Tứ Phủ: hàng Quan, hàng Chầu, Cô, Cậu…. Ở đền Bảo Lộc, theo thủ nhang cho biết, khi hầu, Đức Thánh Trần rất ít khi “lên”, chỉ Đức Thánh Phạm (Phạm Ngũ Lão) thỉnh thoảng có lộ diện. Những người hầu đồng phải ăn chay thanh tịnh sạch sẽ. Một số người khi hầu mang theo mâm gạo, khi Thánh về sẽ viết chữ phán truyền trên mâm gạo đó – một hình thức giáng bút.
Cũng như trong lễ thức thờ Mẫu, các hoạt động hầu bóng ở lễ hội Đức Thánh Trần đã có tác dụng bảo tồn hình thức diễn xướng dân gian truyền thống hát chầu văn, múa thiêng và cách trình diễn của loại hình sân khấu tâm linh. Đã có một thời gian, hầu đồng bên Trần Triều nhập vào với hệ thống Tứ Phủ thờ Mẫu, nhưng gần đây lại có xu hướng tách ra thành một hệ thống riêng biệt, chủ yếu nhằm chữa bệnh và trừ tà ma.
Hiện nay, bên cạnh hầu đồng còn có nhiều hình thức khác, ví dụ trong các đền có bán các loại bùa bằng giấy như bùa chấn trạch, bùa hộ mệnh…Sau khi lễ Thánh, người ta đem về dán ở nhà hoặc đeo vào người. Một số hình thức trừ tà ma trước đây, nay đã mất như xiên lình, rạch lưỡi, phép phù thủy…. Những người bị bệnh (đặc biệt những bệnh thần kinh, điên, nghi bị ma ám, người mắc chứng vô sinh hay hữu sinh vô dưỡng) vẫn đến đền Kiếp Bạc cầu khẩn Đức Thánh Trần. Sau khi khấn, xin âm dương, nếu được thì ra chỗ thủ nhang đóng dấu đồng màu đỏ vào giấy bản màu vàng, rồi lại vào cung, đến bàn thờ Đức Thánh Trần lễ trình. Sau đó họ mang tờ giấy bản đốt hòa lẫn vào rượu và nước cúng, chắt nước trong uống, bã tro thì dùng để day vào thái dương hoặc xoa từ ngực trở xuống. Theo các cụ cho biết, nhiều người đã làm như thế và “khỏi bệnh”.
Ngoài ra, tại các đền thờ Đức Thánh Trần hoặc các chùa có ban thờ ông, còn phổ biến hình thức bán khoán cho trẻ em trong vòng 12 năm. Những đứa trẻ khó nuôi, người ta có lệ đem bán cho Đức Thánh Trần, dùng oai của Ngài để trấn mọi ma tà quỉ dữ, cho đứa trẻ lớn ngoan ngoãn và khoẻ mạnh. Thậm chí, có người còn đổi họ cho con thành họ Trần.
* * *
Bằng chứng cứ văn bản thần tích, truyền thuyết, các bài tụng ca của nhiều đời, các di tích phụng thờ và các nghi thức tế lễ hội hè, có thể khẳng định Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có một vị trí rất quan trọng trong tâm thức dân gian người Việt với một vòng hào quang thần thánh. Một nhân vật lịch sử, một anh hùng cứu quốc đã trở thành một vị Thánh. Sự chuyển hóa từ Trần Hưng Đạo đến Đức Thánh Trần cần được lý giải sâu hơn về bản chất cũng như những căn nguyên xã hội lịch sử của nó.
Chú thích
[1] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê Đại Việt sử ký toàn thư, tập II. Nxb KHXH, H,1971, tr.89
[2] Ngô Sĩ Liên……Sđd,tr.91
[3] Phan Huy Chú. lịch triều hiến chương loại chí, tập I.NxbKhxh, H.,1992, tr.
[4] Ngọc phả nhà Trần. Tư liệu Hán Nom, Dương Văn Vượng dịch , chép tay.
[5] Ngọc phả nhà Trần. Sđd
[6] Trần thị gia huấn. Tư liệu Hán Nôm. Dương Văn Vương dịch, chép tay.
[7] Hoàng Giáp. Cửu thiên Vũ Đế Trần Hưng Đạo. Kỷ yếu hội thảo Thời Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà. Sở VHTT Nam Hà xb, 1996, tr.259
[8] Vũ Ngọc Khánh. Sự thật trong việc thờ cúng dị đoan. Nxb Thanh Hóa, 1984, tr.47
[9] Đền Kiếp Bạc và truyền thuyết. Hội VHNT Hải Hưng, 1994, tr.8-9
[10] Toan Ánh. Nếp cũ-tín ngưỡng Việt Nam. Nxb tp HCM, 1991, tr.231 [11] Hoàng Giáp…..Sđd, tr.160
[12] Nguyễn Văn Khoan. Phác thảo về đình và sự phụng thờ thần thành haòang của các làng ở Bắc Kỳ.BEFEO, t.XXX, 1930, 1-2, bản chép tay
[13] Phan Kế Bính. Việt Nam phong tục. Nxb tp HCM, 1992, tr.298
[14] Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương. Nxb tp HCM, 1992, tr.246
[15] Phan Kế Bính. Sđd, tr.298
[16] Toan ánh. Sđd, tr.230
[17] Ngô Đức Thịnh chủ biên. Đạo Mẫu ở Việt Nam. Nxb VHDT, H.,1996, tr.67
[18] Phan Kế Bính. Sđd, tr.299
Cũng như tín ngưõng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Đức Thánh Trần nằm trong hệ thống đạo thờ Thần Việt Nam. Nhưng nếu như tín ngưỡng thờ Thành hoàng đi theo con đường tiếp thu Nho giáo, chịu sự kiểm soát của triều đình thông qua việc phong sắc, nếu tín ngưỡng thờ Mẫu đi theo con đường tiếp thu Đạo giáo, nằm ngoài vòng kiểm soát của triều đình, thì tín ngưỡng Đức Thánh Trần dường như chịu ảnh hưởng của cả hai hướng Nho giáo và Đạo giáo. Có nhà nghiên cứu còn khẳng định đây là “tôn giáo Việt Nam, nửa thuộc Khổng giáo, nửa thuộc Lão giáo”. Gắn với Nho giáo, tín ngưỡng nhận được sự bảo trợ quí giá của các vương triều từ việc phong sắc tới việc xây dựng đền thờ, tổ chức quốc lễ. Dưới hình thức thờ Phúc thần – vị anh hùng cứu nước – tín ngưỡng vượt ra khỏi hàng rào kiểm toả chặt chẽ nhất của các vương triều thịnh Nho, đả Phật-Đạo như triều Lê, triều Nguyễn. Gắn với Đạo giáo, tín ngưỡng tìm được vị trí trong lòng lớp công chúng bình dân với một mục tiêu rất thế tục: cầu mong sự bình an, khoẻ mạnh. Cũng chính vì vậy, trong nhiều giai đoạn lịch sử, cả nhà nước lẫn dân chúng đều chung lòng tôn vinh Đức Thánh và bảo tồn tín ngưỡng.
Một số học giả đã nhận xét, dưới các thời Ngô-Đinh-Lê-Lý-Trần, mặc dù Nho giáo chiếm vị trí ngày càng mạnh hơn nhưng Đạo giáo vẫn rất thịnh, không chỉ trong dân gian mà ngay cả trong vương hầu quí tộc. Thái độ của các vương hầu quí tộc nhà Trần (cũng như ở các vương triều sau) đối với tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo là một yếu tố cho phép dự đoán tín ngưỡng Đức Thánh Trần đã bắt đầu thành hình từ những năm đầu thế kỷ XIV ngay sau khi Trần Hưng Đạo qua đời (1300). Trong bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư[1], phần kỷ nhà Trần, Ngô Sĩ Liên (cũng như các sử gia trước ông: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên) đã liên tiếp chép những chi tiết cho thấy nhà Trần rất coi trọng tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo và Đạo sĩ. Thí dụ:
– Đinh Hợi 1227, thi con các nhà Tam giáo (nghĩa là những người nối nghiệp các nhà Nho giáo, Đạo giáo, Thích giáo). Mồng 4 tháng 4 đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau thề rồi uống máu [tr.9]
– 1255, đạo sĩ ở cung Thái Thanh cầu tự cho vua, khi đọc sớ xong, tâu với vua rằng “Thượng Đế đã y lời sớ tâu, sẽ sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế 4 kỷ”…Quả nhiên, sinh con trai, ở hai cánh tay có chữ “Chiêu Văn đồng tử” [tr.27] – 1302, bấy giờ có người đạo sĩ ở phương Bắc là Hứa Tôn Đạo theo thuyền buôn đến, cho ở tại bến sông phường Yên Hoa. Phép phù thủy và đàn chay thịnh hành bắt đầu từ đây [tr.97]……vv..
Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy một thái độ ứng xử khá cởi mở (nếu không gọi là sùng tín) của Vương triều Trần đối với tín ngưỡng dân gian và đó là mảnh đất tốt cho những tín ngưỡng có màu sắc Đạo giáo hình thành và phát triển. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần với phương thức ma thuật chữa bệnh đã bắt đầu xuất hiện chỉ một vài năm sau khi Trần Hưng Đạo mất cùng với “sự thịnh hành của phép phù thủy và đàn chay”, cũng như sự khủng hoảng chính trị ở giai đoạn hậu Trần (năm 1368, vua Trần còn vời đạo sĩ núi Yên Tử đi về kinh để hỏi về phép tu luyện).
Sang thời Lê, Nho giáo chiếm ưu thế, tuy nhiên tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo không phải đã hết vai trò, đặc biệt trong đời sống hàng ngày của tầng lớp bình dân. Sách Hội chân biên còn chép việc vua Lê Thánh Tông một hôm đi chơi chùa Ngọc Hồ, gặp tiên nữ, mời lên xe cùng về, xe đến cửa Đại Hưng thì tiên nữ biến mất, vua bèn sai lập “vọng tiên lâu”. Sự tích “vua nho đi chùa gặp tiên” đã nói lên trạng thái hỗn hợp tam giáo thời Lê. Thậm chí, trước khi đi đánh Chiêm Thành, Lê Thánh Tông sai quan đến Bích Câu Đạo quán hỏi tiên Trần Tú Uyên về sự thành bại của cuộc viễn chinh, và khi chiến thắng trở về, nhà vua phong Tú Uyên tước “An quốc chân nhân”. Dấu ấn Đạo giáo còn biểu hiện trong hiệu “Động chủ” của các vua Lê: Lê Thái Tổ – Lam Sơn động chủ; Lê Thái Tông – Quế sơn động chủ; Lê Thánh Tông – Thiên Nam động chủ…. Như vậy ảnh hưởng Đạo giáo vẫn thấm cả vào triều vua được coi “thâm nho” nhất. Đầu thời Lê, theo tài liệu, “xứ ta có 469 chùa, 92 quán, 48 đền và 252 miếu”[2]. Như vậy, con số đền miếu quán gắn với tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo cũng lên tới gần bốn trăm di tích.
Sang triều Mạc, với sự khủng hoảng của hệ tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian lại tìm được chỗ đứng trong xã hội. Có thể nhắc đến Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ in đậm dấu ấn của Đạo giáo thần tiên. Đời sống chính trị-xã hội biến động phức tạp, lòng dân không yên và thái độ cởi mở về tín ngưỡng của các vương triều đã là mảnh đất thuận lợi cho sự hình thành và phát trỉển hàng loạt các trường phái Đạo Nội ở thế kỷ XVI, XVII như tín ngưỡng Tứ phủ, Nội Đạo Tràng của Trần Toàn…Tương truyền chính Trần Toàn đã vẽ bùa bằng chân và niệm thần chú chữa bệnh mọc lông cọp cho vua Lê Thần Tông. Nội Đạo tràng không chỉ ảnh hưởng đến vùng Thanh Hoá mà còn phát triển vào Nghệ An, và ra cả vùng Hưng Yên, Hải Dương ở đất Bắc. Dưới thời Nguyễn, chế độ phong kiến còn ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng hơn, xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, đời sống quần chúng khổ cực, nên các tín ngưỡng dân gian mang màu sắc Đạo giáo càng phát triển rộng. “Trong điều lệ hương đảng của Gia Long có năm khoản thì có tới ba khoản động tới tín ngưỡng Đạo giáo thì dư biết trong dân gian thuở đó, tín ngưỡng Đạo giáo nặng nề đến mức nào”[3].
Như vậy, có thể nói, trải qua các triều đại, dù có được khuyến khích hay bị cấm đoán thì các hình thức tín ngưỡng dân gian, đặc biệt các tín ngưỡng dân gian mang màu sắc Đạo giáo vẫn luôn tồn tại và có những lúc nổi lên khá rầm rộ. Đời sống chính trị xã hội luôn biến động đã là một cơ sở tạo điều kiện cho những hình thức tín ngưỡng này trong đó có tín ngưỡng Đức Thánh Trần tồn tại và phát triển.
Cơ sở quan trọng làm nền tảng cho sự nảy sinh và nuôi dưỡng tín ngưỡng Đức Thánh Trần là truyền thống văn hoá tín ngưỡng của người Việt. Nước ta là một nước nông nghiệp, cuộc sống hàng ngày phải trông chờ vào mưa thuận gió hòa. Vì thế, người Việt nhìn đâu cũng thấy thần linh, thần linh ẩn mình trong mỗi hiện tượng tự nhiên, vụ mùa bội thu là sự gia ân của thần, đánh tan giặc ngoại xâm là do có thần linh giúp sức. Trên nền tảng đó, việc các nhân vật lịch sử, trong đó có Trần Hưng Đạo – những con người nhờ sức mạnh phi thường (hay là pháp thuật theo quan niệm dân gian) mà có công lao to lớn đối với dân tộc được coi là thần, cũng là điều dễ hiểu.
Mặt khác, có thể nhận thấy trong Việt điện có một hệ thống các vị thần được nhân dân tôn phong Thánh. Có Thánh ở tầm địa phương: Thánh làng nào làng ấy thờ; Có Thánh của vùng như thánh Bưng (Lê Phụng Hiểu), Thánh Lường (Trần Khát Chân); có Thánh nghề nghiệp như thánh Chu (Chu Văn An), thánh Khổng (Khổng Minh Không), có Thánh tầm cả nước như thánh Gióng, thánh Tản…Thật khó tìm ra một qui luật chung cho các vị thần được nhân dân tôn là Thánh, thế nhưng dù sao, hệ thống này cũng là cơ sở cho sự gia nhập thêm một vị nhân thần: Thánh Trần. Tâm thức dân gian luôn dành chỗ cho những người có thành tích một mỹ từ: Thánh, kể cả tôn Thánh khi còn sống – Thánh sống. Nếu như trong số các vị được tôn “Thần” cũng có người tốt, người xấu, có tà thần, dâm thần, thì trong tâm thức dân gian, Thánh thường phải là những thần-người hoàn thiện, hoàn mỹ, là chỗ dựa tinh thần cho quần chúng nhân dân. Bởi vậy, không có gì khó hiểu trước hiện tượng Bác Hồ được suy tôn thành Thánh, đưa vào các di tích và cũng hương khói thờ phụng như nhiều vị Thánh khác. Đức Thánh Trần đã được tôn thờ trong một dòng tâm thức như vậy.
Bên cạnh hệ thống các Thánh, người Việt còn xây dựng một quan niệm về Tiên: người đẹp (đẹp như tiên); nơi sung sướng hạnh phúc (cõi tiên), có nhiều phép lạ biến hoá và chữa bệnh, cứu người (phép tiên). Nhân dân ta rất tôn thờ và ngưỡng mộ sâu sắc những người tuy “ở trần thế nhưng nhờ thông qua thiền định về tu luyện khổ hạnh mà đã đạt tới trạng thái hoàn thiện về tinh thần và vật chất”[4]. Ông Nguyễn Văn Huyên trong bài Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam đã có nhận xét khái quát: “Lòng tin vào thần tiên được làm sống động trong không gian. Từ đầu đến cuối nước Nam, từ Cao Bằng đến Hà Tiên, sự khát vọng bất tử được thể hiện một cách tế nhị thông qua các truyền thuyết mang ít nhiều sắc thái địa phương. Lòng tin đó cũng được duy trì theo thời gian. Mỗi thời kỳ quan trọng của lịch sử, mỗi thời đại thịnh vượng đều được minh họa bởi một sự xuất hiện của thần tiên. Ví dụ, vào đời nhà Lý là Thông Huyền, vị Tiên lương y; vào đời nhà Trần là Chân nhân Huyền Vân ở Chí Linh, là sự mất tích của Từ Thức hoặc là thanh gươm thần của Trần Hưng Đạo; vào đời nhà Lê là sự kết duyên giữa Tú Uyên và Giáng Kiều, là khúc anh hùng ca kỳ lạ của Liễu Hạnh..”[5]. Quan niệm về Tiên đã tạo nên chuyện Chử Đồng tử – một Chử Đạo tổ với cây gậy trúc có phép biến hóa cải tử hoàn sinh, và một Tây cung tiên nữ có thuật lấy giấy trắng viết một chữ son đỏ, đốt đi hoà tan giấy vào nước trong cho bệnh nhân uống, ai cũng khỏi bệnh. Đó cũng là một mẫu hình chân nhân (những người thực sự là con người) thành hệ thống trong lịch sử: Thông Huyên chân nhân (đời Lý), Huyền Vân chân nhân (đời Trần), Phạm Viên chân nhân (thế kỷ XVIII)..vv…Các chân nhân tu luyện đắc đạo bằng cách làm việc thiện dần dần trở thành Tiên bất tử, tách rời khỏi cõi thế. Mặt khác, một số vị Tiên lại được đầu thai hoặc giáng trần vì một sứ mệnh cao cả. Trong dòng tâm thức đó, dân gian đã lắp ghép vào tiểu sử người anh hùng cứu nước Trần Hưng Đạo một nguồn gốc Tiên giới: Thanh Tiên đồng tử đầu thai.
Từ sau thế kỷ XVI, XVII, với sự xuất hiện của Liễu Hạnh, hệ thống thờ Mẫu được dần dần hoàn chỉnh. Trong sự cảm nhận thiêng liêng về tình gia tộc, nghĩa “đồng bào” – vốn chi phối cả dân tộc ngay từ buổi ban đầu (truyền thuyết Lạc Long Quân, Âu Cơ với bọc trăm trứng), trong tâm thức dân gian, đã có Mẹ thì cũng phải có Cha, và không có gì tuyệt vời hơn nếu vị trí đó được giành cho Trần Hưng Đạo, vốn đã là một vị Thánh trong lòng họ. Dân gian đã khéo kết hợp tất cả những tín ngưỡng dân gian, từ quan niệm đa thần, từ đạo tổ tiên, đạo Thánh, đạo Tiên, đạo Tứ Phủ để tạo nên một hình ảnh hoàn chỉnh của nhân vật mà người dân yêu quí: Đức Thánh Trần. Như vậy, do lòng yêu nước, ý chí chống ngoại xâm của dân tộc ta đã trở thành tâm thức, nên đạo nào cũng muốn vươn ra, giành lấy những biểu tượng tốt đẹp cho mình. Vì thế, Đức Thánh Trần – biểu tượng cao đẹp nhất, dễ dàng được nhập vào các đạo khác. Đạo Mẫu cố đưa Thánh Trần và cả hệ thống Trần Triều đi vào điện Mẫu, và bản thân Ngài cũng được nhận làm Cha bên cạnh Mẹ Liễu Hạnh. Nội Đạo – vốn chịu nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo, với Chử Đạo Tổ vốn được coi là tổ sư, cũng đã nhanh chóng giành Đức Thánh Trần và đặt ông – vị nhân thần gần gũi hơn – vào vị trí cao quí nhất thay cho Chử Đạo Tổ. Đạo Tiên cũng giành Đức Thánh Trần bằng chi tiết Tiên đầu thai…
Mặt khác, sự xuất hiện tín ngưỡng Đức Thánh Trần vào thời hậu Trần có lẽ cũng do khuynh hướng tín ngưỡng lúc này không thỏa mãn với những gì đã có. Lý Tế Xuyên trong lời tựa Việt điện u linh đã bộc lộ: “Trong nước Hoàng Việt ta, các vị thần có miếu tự, có quốc tế xưa nay rất nhiều, nhưng những vị biểu dương được vĩ tích, âm phù được sinh linh thì không có mấy”[6]. Phái Thảo Đường của thời Lý có khuynh hướng từ bi, nặng về Phật giáo thần thông, Đạo Nội của Chử Đồng Tử với xu hướng thần tiên xa vời, người ta muốn dựng lên một hình thức tín ngưỡng mang màu sắc dân tộc tích cực hơn. “Tuy sự nghiệp và thân thế Ngài còn ghi trong sử sách chính xác, nhưng kỳ tích của Ngài đã được nhân dân thần thánh hóa là vị Tổ của dòng Nội Đạo thay thế cho Chử Đồng Tử thuộc dòng đạo Tiên thuần túy”[7].
Như vậy, nếu các đạo Thánh – đạo Tiên – đạo Mẫu muốn đưa Đức Thánh Trần vào hệ thống điện thờ để tăng thêm tính hấp dẫn của thành tích “hộ quốc an dân”, thì bản thân tín ngưỡng này cũng là kết quả biến chuyển, hòa nhập của các tín ngưỡng truyền thống: thờ Thánh, thờ Tiên, thờ Mẫu, và cả thờ cúng tổ tiên. Dư âm hào hùng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông và kỳ tích của vị Tiết chế thống lĩnh quân đội Trần Hưng Đạo đã tạo ra một bối cảnh lịch sử – văn hóa thuận lợi cho khuynh hướng tâm linh muốn dựng một tín ngưỡng mới thuộc dòng Đạo Nội, gắn bó chặt chẽ với ý chí độc lập tự cường của dân tộc.
– Lý do chủ yếu cho việc hình thành và tồn tại tín ngưỡng, đó là lòng yêu nước và tự tôn dân tộc đã trở thành một đặc trưng sâu đậm của tâm thức dân gian người Việt. Sinh sống trên mảnh một mảnh đất luôn luôn bị giặc ngoại xâm dòm ngó, người Việt ý thức được sâu sắc sự tồn vong của đất nước phụ thuộc vào ý chí tự lực tự cường của mình. Có thể nói đã tồn tại một dòng truyền thuyết về chiến tích của những người anh hùng chống ngoại xâm. Việc thờ phụng các vị anh hùng như Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo…được hình thành như một việc tất yếu, đương nhiên. Ngay sự tích của các nhiên thần cũng được lồng ghép với chiến công cứu nước. Đi đến bất kỳ di tích nào, chúng ta cũng nghe người dân ca tụng công lao của các thần, mà công lao đầu tiên không thể thiếu được là trừ giặc cứu dân. Nhìn chung các Thánh ở các làng đều có công đánh ngoại xâm. Vì thế, khi nước nhà có nguy biến, người dân Việt thường huy động sức mạnh của hồn thiêng sông núi vào sự nghiệp đại nghĩa. Chí sĩ Phan Đình Phùng đã cảm tác:
“Núi rất cao mà nước rất trong,
Thần linh sông núi chắc có ngầm giúp chúng ta,
Nếu không như thế, địch đông ta ít, sức chênh lệch,
Sao địch mới đến đầu khe đã thất kinh bỏ chạy ?”
(Cảm tác sau thắng trận)
– Việc thờ phụng người anh hùng Trần Quốc Tuấn còn bắt nguồn từ truyền thống dân tộc – và cũng đã thấm sâu vào tâm linh mỗi người – đó là uống nước nhớ nguồn. Yêu nước, tự hào dân tộc và lòng biết ơn cội nguồn là những khía cạnh nổi trội trong tâm thức dân gian người Việt kể cả những người cầm quyền của các vương triều. Thực ra nhiều vương triều bắt nguồn từ tầng lớp bình dân (gốc rễ dân chài của nhà Trần, nhà Mạc), gắn bó với nhân dân từ trong chiều sâu tâm thức ( thí dụ các ông vua nhà Trần rất chú ý đến các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian: ca múa, đấu vật, bơi thuyền…). Nhưng, từ vị trí quản lý đất nước, các vương triều của nhà nước tự chủ rất cần đề cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lòng biết ơn cội nguồn để củng cố sức mạnh của cộng đồng. Ở đây, lý thuyết Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới tín ngưỡng. Để đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội, nhà vua phải vươn tới quản lý chặt chẽ một hệ thống từ Trung ương đến làng xã, kể cả hệ thống thần linh. Việc thờ phụng Đức Thánh Trần, do đó, được sự ủng hộ của cả vương triều nhà nước và dân chúng. Từ trong các nghi lễ thờ phụng vị anh hùng dân tộc đã xuất hiện con đường trao truyền sức mạnh thiêng liêng để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên có chép “các châu huyện Lạng Giang bị bệnh chẩn đậu, nhiều người kêu cầu. Đến nay (1479 – năm Ngô Sĩ Liên chép Toàn thư) mỗi khi trong nước có giặc thì tế ở đền thờ, hễ thấy gươm trong hòm có tiếng kêu tất là đại thắng”[8]. Cũng sách này, tập 3, tr.29 ghi: vào tháng 2/1427, khi cuộc kháng chiến chống quân Minh ở giai đoạn quyết liệt nhất, Lê Lợi đã “sai Dương Thái Nhất sửa chữa đền thờ Hưng Đạo Đại vương, cấm chặt cây ở miếu”. Không được phép chặt cây ở miếu vì năng lực thần linh của Đức Thánh đã ngự vào những cái cây ấy. Tục lệ trước khi đi đánh trận đến khấn lễ trước Ngài chính là để tiếp thêm sức mạnh từ truyền thống vẻ vang của dân tộc. Cũng chính vì lý do này, tín ngưỡng Đức Thánh Trần được bảo tồn và phát triển.
– Khác với các vị Phúc thần, những anh hùng dân tộc khác, Trần Hưng Đạo được thờ như vị thần chủ của một dòng tín ngưỡng còn vì một lý do đặc biệt. Đức Thánh đáp ứng một nhu cầu tâm linh bình dị của những người dân nghèo. Ngoài cầu mùa, họ cầu tài, cầu lộc, cầu phúc, cầu an. Nếu như ở phủ Mẫu – người ta cầu lộc, cầu tài thì ở điện Đức Thánh Trần, họ tập trung cầu phúc, cầu an. Cầu phúc trước hết là cầu con, cầu sức khoẻ. Ai cũng muốn có con cái xum vầy, đường dây thế hệ không bị đứt, hơn nữa, có được người thừa tự. Nhưng trong thực tế, có nhiều người hiếm muộn con cái hoặc hữu sinh vô dưỡng. Họ hình dung có một thế lực siêu hình nào đó ngăn trở, hãm hại con đường sinh nở tự nhiên cũng như hành hạ thân xác của mình. Vì thế, họ mong được một sức mạnh siêu phàm giúp đỡ và Đức Thánh là đối tượng được họ tin tưởng khẩn cầu. Dân gian có câu Phúc đức tại mẫu. Cái phúc của một gia đình phụ thuộc vào người đàn bà nên người đàn bà phải “tích phúc”. Điều này cũng giải thích tại sao đa số những người đi lễ ở đền, phủ, chùa là phụ nữ. Hơn nữa, phụ nữ thường nhậy cảm, sống thiên về cảm xúc, ít suy lý nên mọi tín ngưỡng tôn giáo đều dễ dàng chinh phục họ, đặc biệt là những tín ngưỡng có sử dụng các thủ pháp ma thuật kỳ lạ, bí ẩn. Họ dễ bị thôi miên, ốp đồng và cũng dễ giải tỏa về mặt tâm lý.
Có thể nói, tín ngưỡng Đức Thánh Trần đáp ứng được nhu cầu của cả vương triều (yêu cầu khẳng định ý chí độc lập tự chủ của dân tộc) và lớp nho sĩ (trong ý niệm về địa linh nhân kiệt) cũng như nhu cầu giản dị của tầng lớp bình dân (bắt tà trừ ma chữa bệnh). Đức Thánh Trần cũng đáp ứng được mong muốn có một biểu tượng chống lại lực lượng xấu, tà khí (mà Phạm Nhan là đại diện). Đức Thánh Trần là biểu tượng của chính khí. Chính những nhu cầu vừa thế tục, vừa tâm linh ấy đã nuôi dưỡng cho tín ngưỡng tồn tại và phát triển trong suốt bẩy thế kỷ và vẫn còn nguyên sức hấp dẫn đối với người dân của xã hội đương đại.
Trần Hưng Đạo là một trong rất nhiều nhân vật lịch sử tài danh đã được thần hóa, nhưng ông là vị nhân thần có vị trí đặc biệt nhất trong thần điện Việt Nam. Vậy bản chất của hiện tượng này là gì?
– Hiện tượng Đức Thánh Trần mang những nét chung của các hình thức tín ngưỡng dân gian người Việt. Đối tượng phụng thờ là một nhân vật lịch sử. Hào quang thần thánh đã được bồi đắp bằng trí tưởng tượng phong phú của nhiều thế hệ dựa trên vốn sử liệu sơ sài nhưng đậm nét về người anh hùng giữ nước. Sự tôn kính của nhân dân đối với Đức Thánh bao chứa cả hai yếu tố: kính vì Ơn và kính vì Sợ . Ơn vì những công lao to lớn của Ngài đối với lịch sử dân tộc, Sợ vì những sức mạnh huyền diệu mà Ngài đã chiến thắng trong trận đọ sức với cả giặc Nguyên Mông hung hãn lẫn giặc Phạm Nhan. Trong những lúc khó khăn nhất của đất nước (giặc ngoại xâm) hay nỗi đau đớn vì bệnh tật, cầu khấn Thánh, người ta hy vọng một sự bình an, tai qua nạn khỏi. Dường như mối quan tâm của họ chỉ tập trung vào những ước mong cụ thể, bình dị chứ không biết đến những lý luận cao siêu về cái Thiêng hay Đấng Cứu thế. Ngay trong những người thành tâm tế lễ nhất cũng ít người hiểu nhiều và chính xác về đối tượng mà mình thờ phụng. Họ chỉ biết đơn giản Ngài là một vị tướng đánh giặc giỏi, một người chữa được bệnh và trị được ma tà (thậm chí có những nông dân chỉ biết đến tên Đức Thánh Trần nhưng không biết ông là ai). Thần tích về Ngài càng mờ ảo quanh cái trục “ích nước, lợi dân” ấy càng khiến cho trí tưởng tượng dân gian được chắp cánh và độ thiêng của thần càng lớn.
– Tín ngưỡng Đức Thánh Trần còn là một dạng thức tín ngưỡng phức hợp. Nhìn chung, đây là tín ngưỡng thờ Thần – PHÚC THẦN. Nhưng trong nhiều khía cạnh khác nhau của tín ngưỡng có sự đan xen, giao thoa những yếu tố của cả tôn giáo lớn như Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian khác như thờ cúng tổ tiên, vật linh, thành hoàng, Tứ phủ..vv..Theo thống kê của các Bảo tàng địa phương, di tích thf Trần Hưng Đạo gồm đủ mọi loại hình: chủ yếu là đền, nhưng có cả chùa, đình, điện, miếu, phủ, tĩnh, am…Trong nhiều ngôi chùa, cũng như tín ngưỡng Tứ phủ, tín ngưỡng Đức Thánh Trần cũng chiếm được một ban thờ nơi cửa Phật, bên cạnh toà Tam Bảo. Các vị sư viết giúp sớ cho người dân bán khoán con cho Đức Thánh. Thực ra ngay từ thời Lý “Phật giáo đã lẫn lộn rất nhiều với tư tưởng Đạo giáo…Nếu chỉ thuần theo triết lý Thiền tông thì đạo Phật không đi vào quần chúng được. Muốn đi vào quần chúng Việt Nam thì không khỏi thỏa hiệp với tư tưởng tín ngưỡng dân gian ma thuật vốn có”[9]. Trong các đền, phủ thờ Mẫu cũng có ban thờ Trần Triều, thực chất là thờ Thánh Trần Hưng Đạo. Ngay trong dòng thờ Đức Thánh Trần, cũng có nhân vật Thiện Đạo Quốc Mẫu – vị Thánh Bà đã sinh ra người anh hùng kiệt xuất Trần Hưng Đạo, và sự nghiệp cứu dân độ thế, phù chính trừ tà cũng là nhờ “phúc đức tại Hậu”
Dấu ấn của đạo thờ tổ tiên cũng in đậm trong các di tích. Có cảm giác đây là những từ đường của dòng họ Trần. Hầu hết các di tích lớn đều thờ các vị khải Thánh (cha mẹ sinh ra Thánh) và thờ con trai, con gái, con rể của Trần Hưng Đạo. Vùng di tích đậm đặc nhất là xứ Nam (đặc biệt Nam Định), quê hương của ông. Nghi thức “tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ” phải chăng cũng là một dạng phóng đại của mô thức gia đình và hình thức thờ cúng tổ tiên?
Đặc biệt có nhiều di tích vốn thờ nhiên thần: thần sông, thần núi, cũng tìm cách đưa Đức Thánh Trần vào phối tự. Ví dụ như đền Đồng Bằng-Thái Bình đã nói ở trên. Đây vốn là đền thờ Vua cha Bát Hải – thủy thần, nhưng hiện đang thờ vọng Trần Hưng Đạo. Điều này có thể giải thích: một mặt, bằng sức hút của dòng tâm thức đề cao các anh hùng cứu nước nên nhiều nhiên thần đã được nhân hóa mang công trạng “phò vua giúp nước” (rắn thần hóa người đi dẹp giặc giúp vua Hùng); mặt khác, việc đưa các anh hùng cứu nước vào phối tự sẽ đảm bảo được sự tồn tại bền vững của di tích trong sự thẩm xét chặt chẽ của các vương triều. Hơn thế, nhờ kết hợp với tín ngưỡng thờ Thánh mà đền Đồng Bằng có được sức hấp dẫn mạnh hơn đối với tín đồ (cúng lễ, hầu bóng trừ ma tà). Có một hiện tượng khá rõ là Trần Hưng Đạo thường được thờ ở những vùng ven biển. Tất nhiên đây là địa bàn đánh giặc của ông, hơn nữa gốc nhà Trần là dân chài, nhưng phải chăng, tâm thức dân gian đã qui Đức Thánh Trần vào dòng dõi thủy thần?
Tín ngưỡng Đức Thánh Trần ở một số nơi lại đan xen với tín ngưỡng thờ thần thành hoàng, chủ yếu trong các đình. Đặc điểm phức hợp này có lẽ cũng là đặc điểm của nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian ở nước ta.
– Điều chúng tôi đặc biệt lưu ý là tín ngưỡng Đức Thánh Trần là một hình thức tín ngưỡng thờ Phúc thần có liên quan đến thờ tà thần – dấu ấn còn lại của tín ngưỡng nguyên thủy. Tác giả Tạ Chí Đại Trường có viết: “Mối liên hệ thờ cúng giữa Phạm Nhan và Trần Hưng Đạo chứng tỏ một thần nhảm nhí giữ được hương khói đến năm trăm năm không phải vì không có một Địch Nhân Kiệt như nhà nho thế kỷ XVIII đã than thở (ý nói Vũ Phương Đề), mà vì người dân đã biết cách lập được một cơ cấu truyện tích để ghép thần của họ vào với vị phúc thần của nhà Trần…Uy thế người chiến thắng của Trần Quốc Tuấn làm cho ông có được tư thế cao hơn nữa, xứng đáng là phúc thần của đất hương hỏa, đủ quyền áp đảo các thần nhảm nhí ở địa phương, trong đó có thần Nhan. Và do đó, thần Nhan tồn tại theo với sự thờ cúng thần Vạn Kiếp trong một truyện tích mang kịch tính của chiến tranh hơn là sự thật lịch sử”[10].
Trong thực tế, có thể có một nhân vật lịch sử như vậy, một tên phù thủy được giặc Nguyên sử dụng để uy hiếp binh lính ta. Sách Lịch triều sau này cũng coi đây là một nhân vật có thật. Nhưng dân gian ít biết tên gọi Bá Linh (có thể bắt nguồn từ linh nhân), chỉ gọi Phạm Nhan. Ở đây đã có yếu tố nối kết với chuyện Thanh tiên đồng tử giáng trần để trừ kẻ làm loạn. Cũng theo tác giả Tạ Chí Đại Trừơng thì từ nhan có thể là danh xưng của thần nói chung ở vùng này, nói cách khác là “thần sông của xã An Bài”. Điểm nổi bật có vẻ là yếu tố trung tâm là “thần đi khắp nước để tìm hút máu”(đàn bà). Ông còn dự đoán: “họ Trần gốc dân chài hẳn có lúc cũng thờ thần Nhan”. Từ Nhan theo gợi ý của giáo sư Trần Quốc Vượng có thể là biến âm từ blam, mnam, ma-nậm (người vùng này gọi nước là nậm), ma-nam (ma dưới nước) và thành nhan. Như vậy, “nhan” có nghĩa là ma quỉ dưới nước. Tâm thức những người dân chài, dân sông nước thường chịu sự chi phối của Nhan là vì thế. Dân gian hình dung con ma nước ở dưới dạng: nào khúc sông sâu, nào tảng đá ngầm, nào con sóng lớn, và cả sự ô nhiễm của dòng nước luôn luôn đe dọa công việc làm ăn, sức khoẻ và cả sự sống còn của con người. Có lẽ vì vậy, bệnh sản hậu của phụ nữ – thường do vệ sinh không tốt, bị nhiễm trùng bởi dòng nước bẩn – được gắn kết với “Nhan”- kẻ chuyên hại phụ nữ. Khi con người thiếu hiểu biết, thiếu khả năng chế ngự, tự bảo vệ thì đương nhiên con người sẽ thần bí hóa đối tượng. Cái sức mạnh bí ẩn vô hình đã được con người vật chất hóa thành một nhân vật cụ thể: giặc Phạm Nhan. Từ chỗ chỉ là ma nước, giặc sông, truyền thuyết dân gian đã hình dung sự bành trướng của Nhan ở trên rừng, mặt đất qua câu chuyện chặt Nhan làm ba khúc: khúc lên rừng thành vắt, khúc ở đất thành muỗi, khúc dưới sông là đỉa. Đây là những con vật chuyên hút máu người, có thể có mặt ở khắp nơi. Truyện tích dân gian đã đẩy tầm hiểm họa của Nhan đến mức phổ biến.
Mặt khác, trong tâm thức dân gian, hướng Bắc được coi là hướng tà khí, vì vậy dân gian đã ghép Phạm Nhan vào đội quân phương Bắc đến xâm lược nước ta. Trần Hưng Đạo đã có đủ uy để dẹp giặc phương Bắc thì tất cũng có sức mạnh dẹp giặc Phạm Nhan.
Tuy vậy, nỗi sợ hãi đã buộc những người dân phải lập đền thờ Phạm Nhan, cũng như chính sự sợ hãi đã buộc họ phải thờ nhiều dâm thần hay tà thần khác. Khi trực tiếp khảo sát đền thờ Phạm Nhan ở thôn An Bài, xã An Lạc, huyện Chí Linh, Hải Dương, chúng tôi lưu ý tới hiện tượng: dân làng không dám thừa nhận việc thờ Phạm Nhan. Họ lảng tránh câu hỏi và ý thức được việc thờ tà thần. Ngôi đền đã bị phá hồi cải cách ruộng đất, hiện chỉ còn hậu cung với ban thờ rất sơ sài. Hiện nay, mấy gian nhà văn hóa được xây phía trước như một tấm phông che chắn việc thờ cúng ở hậu cung. Hiện tại, đền không còn một sắc phong hay dấu vết thần tích nào. Dân các làng bên cho biết, trước kia ngai thờ của đền có chạm khắc hình thù các con vật đỉa, vắt, muỗi (một dạng hèm, liên quan đến truyện tích của thần Nhan). Vào ngày Kiếp Bạc làm lễ, dân làng này quay ngai thờ vào phía trong (!). Hơn thế, do bị chế ngự bởi một sự ám ảnh nào đó, người dân An Bài không bao giờ tham dự lễ hội đền Kiếp Bạc.
Như vậy, ở các di tích thờ Đức Thánh Trần, giặc Phạm Nhan được nhắc tới như một bóng ma luôn lẩn quất. Người dân cầu cứu sự trợ giúp của Thánh, nhưng cũng ẩn giấu trong đó cả sự kính sợ tà ma. Vì vậy, dâm thần, “thần nhảm nhí” cũng đã được “ăn theo” sự phụng thờ có tính chất quốc lễ đối với Đức Thánh cao cả.
Trong quá trình hình thành và tồn tại, các tôn giáo tín ngưỡng thường có ảnh hưởng tác động qua lại, vay mượn lẫn nhau. Ở Việt nam, dường như không có tôn giáo nào hoàn toàn trung thành với nguyên lý khởi thủy. Chúng buộc phải vận động, thay đổi thích nghi với điều kiện xã hội lịch sử cụ thể và nhất là để phù hợp với nhu cầu tâm linh mang sắc thái dân tộc của các tín đồ. Ngược lại, các tín ngưỡng bản địa vốn được hình thành một cách tự phát, không có các lý thuyết trừu tượng cũng đã dần dần vay mượn giáo lý của một số tôn giáo để tồn tại và phát triển. Do có một số đặc điểm tương đồng, Đạo giáo là tôn giáo có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với các tín ngưỡng dân gian bản địa. Dấu ấn Đạo giáo đặc biệt in đậm nét trong hiện tượng văn hóa mà chúng ta đang tìm hiểu: Tín ngưỡng Đức Thánh Trần.
Quá trình giao lưu văn hóa đã đưa Đạo giáo Trung Hoa đi khắp các vùng, trong đó có Việt nam. Vào nước ta có cả hai dòng tu tiên và phù thủy. Nhiều truyện dân gian đã đề cập đến chuyện gặp tiên như truyện Từ Thức, truyện Bích Câu kỳ ngộ hay chuyện vua Lê Thánh Tông gặp tiên ở chùa Ngọc Hồ. Dòng phù thủy còn đậm nét hơn với chuyện Triệu Quang Phục có mũ đầu mâu gắn móng rồng, tên bắn không trúng; thần Long Đỗ dùng phép làm nổ tung trấn huyệt bằng sắt của Cao Biền ở đền Bạch Mã; Từ Đạo Hạnh có phép ném gậy trôi thẳng đứng và đã đầu thai thành vua Lý Thần Tông v.v. Nhưng, cũng như ở Trung Hoa, Đạo giáo có biến đổi trong từng giai đoạn lịch sử và xã hội cụ thể, khi du nhập vào Việt Nam, nó đã kết hợp với thuyết vạn vật hữu linh, các phương thức hiến tế ma thuật của cư dân bản địa từ thời nguyên thủy, để khi có điều kiện thuận lợi, nó trở thành các hình thái tín ngưỡng có tính chất Đạo giáo của chính người Việt (thường được gọi là Đạo Nội). Tín ngưỡng Đức Thánh Trần là một dạng thức như vậy.
Màu sắc Đạo giáo trong tín ngưỡng Đức Thánh Trần biểu hiện cả trong nội dung thần tích, mục đích tín ngưỡng và các phương thức hành lễ.
Trước hết, nếu Đạo giáo hướng tới sự bất tử của cả linh hồn và thể xác, mong muốn con người có sức khoẻ để đạt tới trường sinh thì việc thờ phụng Đức Thánh Trần cũng có mục tiêu chữa bệnh, giữ sức khỏe. Đây không phải là mục tiêu duy nhất, nhưng đối với người bình dân, đây là mục tiêu thiết thực cụ thể hơn cả. Có thể thấy, nhân dân sùng bái ở Đức Thánh Trần trước hết cái quyền năng ma thuật của Ngài và thực chất của tín ngưỡng là nhằm trừ ma tà, chữa bệnh. Nắm lấy chi tiết Trần Hưng Đạo lập vườn Dược Sơn trong tiểu sử, cộng với các chiến công oai hùng của ông, dân gian đã xây dựng nên truyền thuyết thần trao cho ông thứ DƯỢC LINH để cứu người, bên cạnh THANH KIẾM THẦN để giúp đời. Dược Linh là thứ thuốc linh thiêng có thể giúp con người thoát khỏi mọi bệnh tật, có sức khỏe dồi dào. Khát vọng về sự “trường sinh bất tử” hẳn vẫn tiềm ẩn trong tâm thức dân gian, nhưng giản đơn hơn, họ mong tránh tật bệnh, tai qua nạn khỏi. Dân trong vùng thường hái các thứ lá trên núi, phơi khô, bán làm thuốc tại cửa đền. Khách hành hương dù không tin tưởng vào chuyện xua đuổi tà ma thì vẫn có thói quen mua nắm lá tại đền về đun uống để giải nhiệt, trừ tà khí. Điều đáng nhấn mạnh là việc chữa bệnh của tín ngưỡng chủ yếu theo các phương thức phù chú ma thuật – hình thức chữa bệnh quen thuộc của Đạo giáo. Tàn hương, nước thải, đất sau ban thờ, nước giếng thần…được coi là Dược Linh. Thanh đồng ốp tà, thôi miên người bệnh tự đuổi tà ma ra khỏi mình, dán bùa bán khoán con trên cột nhà…mang rất rõ tính ma thuật. Bởi vậy, ở một khía cạnh nào đó, tín ngưỡng Đức Thánh Trần cũng có thể coi như một dạng ma thuật chữa bệnh. Tương truyền có nhiều người khỏi bệnh (chủ yếu do giải tỏa tâm lý), và sức mạnh của các “tin đồn” đã đánh trúng tâm lý của bệnh nhân “có bệnh thì vái tứ phương”. Một đồn mười, mười đồn trăm…, dần dần trở thành niềm tin thiêng liêng không cần đến sự lý giải hay kiểm chứng.
Sự ra đời của Đức Thánh Trần gắn với danh xưng Thanh Tiên đồng tử là một biểu hiện gắn bó giữa tín ngưỡng thờ Ngài và dòng tu tiên Đạo giáo. Thanh Tiên đồng tử – vị tiên nhỏ áo xanh – in dấu trong tất cả mọi truyền thuyết về Trần Hưng Đạo. Đồng tử là khái niệm chỉ trẻ con, gắn liền với những gì tự nhiên. Trong kho tàng văn hóa dân gian người Việt, chúng ta rất hay gặp danh từ này. Chử Đồng Tử, Chiêu Văn Đồng Tử Trần Nhật Duật chẳng hạn. Nguyên lý gốc của Đạo giáo với tư tưởng của Lão Tử đề cao cuộc sống tự nhiên, nguyên thủy, tránh mọi sự can thiệp (“vô vi nhi trị”- trị bằng cách không làm gì trái với tự nhiên). Theo lý thuyết này, trẻ con là người đại diện cho tự nhiên. Khát vọng sống một cách tự nhiên của con người cũng thường bắt gặp trong các motip: người trần bắt gặp Tiên tắm, hay chi tiết Chử Đồng Tử không quần vùi mình trong cát, mảnh đất mà Chử Đồng Tử và Tiên Dung dựng lều sau gọi là Đầm Tự Nhiên…vv. Việc giáng trần của các vị đồng tử thường để thực hiện một sứ mạng nào đấy. Thanh tiên đồng tử xuống trần đầu thai để trở thành một vị tướng giúp dân trừ tà, dẹp loạn. Còn từ “Thanh” trong Thanh Tiên nhằm chỉ màu sắc của trang phục. Thần điện Đạo giáo có Tam Thanh: Thượng Thanh, Ngọc Thanh và Thái Thanh. Chính đạo Cao Đài ở nước ta đầu thế kỷ XX cũng có biểu tượng ba vị này. Hình tượng chú bé áo xanh Thanh Tiên đồng tử phải chăng cũng bắt nguồn từ màu xanh thiêng liêng của Đạo giáo ?
Theo truyền thuyết, khi mất – cũng là khi hoàn thành sứ mệnh giết giặc trừ tà – Thanh Tiên đồng tử trở về trời được Ngọc Hoàng phong Cửu Thiên Vũ Đế, cao chức hơn tất cả các vị Đế trông coi ở mỗi phương. Nhưng tâm thức dân gian vẫn lưu giữ hình ảnh anh hùng của Ngài và tôn phong Ngài thành Đức Ngọc Hoàng cai trị chốn trần gian. Dân gian đã sử dụng mô hình của Đạo giáo nhưng thay vào vị trí cao quí nhất, họ đã đặt vào đó người anh hùng mà mình tôn kính. Thông thường trong cách bài trí ở các quán và ở các chùa, phủ chịu ảnh hưởng của Đạo giáo (ví như ở Phủ Tây Hồ- Hà nội) có bộ ba tượng: Ngọc Hoàng chính giữa, Nam Tào bên trái, Bắc Đẩu bên phải. Nam Tào-dương, Bắc Đẩu-âm. Không biết tự thời điểm nào mà ngọn núi hai bên đền thờ Kiếp Bạc đã được mang tên hai vị quan (chủ sự sinh-tử) giúp việc Ngọc Hoàng. Hơn thế, dân gian đã gắn hình ảnh hai người tâm phúc nhất của Hưng Đạo Vương là Yết Kiêu và Dã Tượng vào vị trí hai vị quan phò tá Ngọc Hoàng. Chuỗi logich của tâm thức là Yết Kiêu và Dã Tượng đã từng phò tá Hưng Đạo Đại Vương khi ở trần gian thì ở thế gíơi bên kia, họ sẽ trở thành Nam Tào-Bắc Đẩu tiếp tục giúp việc Ngọc Hoàng – Đức Thánh Trần trong việc cứu dân, giúp đời. Ngay tại Hà nội, đền Phù Ủng (phố Lý Quốc Sư), chúng ta cũng bắt gặp bộ ba tượng này với ý nghĩa tương tự.
Các nguyên lý âm dương, dịch, ngũ hành như những dòng tư tưởng triết học cổ đại Trung Hoa đã được Đạo giáo thần hóa đến mức triệt để. Tín ngưỡng Đức Thánh Trần đã tiếp nhận sự thần hóa này. Người ta thường nhắc câu ca “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”. Sự đối sánh Cha-dương và Mẹ-âm, tháng Tám-âm và Cha-dương, tháng Ba-dương và Mẹ-âm, tất cả đều dựa trên quan niệm âm dương đối đãi, hòa hợp để tạo ra sự phát triển. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng gốc rễ của lễ thức này là nghi lễ cầu nước (tháng Ba giỗ Mẹ – cầu Mưa), cầu tạnh (tháng Tám giỗ Cha – cầu Tạnh) của cư dân nông nghiệp cổ. Ở đây có thực tế: Trần Hưng Đạo mất tháng Tám và Liễu Hạnh mất tháng Ba. Nhưng thực ra, đối đãi âm dương, cặp đôi CHA-MẸ chỉ là một nguyên lý, nên nó có thể biến đổi theo tâm thức của nhân dân từng vùng. CHA có thể là Bát Hải đại vương (vùng Quỳnh Phụ, Thái Bình) hay Sơn Tinh (vùng Phú Thọ). MẸ có thể là Âu Cơ (vùng núi phía Bắc), Thiên Yana (miền Trung) hay Thiên Hậu (miền Nam). Đối sánh CHA-MẸ ấy có thể là Lý Nam Đế và Liễu Hạnh ở vùng Phủ Giầy, Vụ Bản; là Bát Hải và Liễu Hạnh ở vùng Quỳnh Phụ, Thái Bình; hay là Sơn Tinh-Âu Cơ ở Phú Thọ…Nhưng, nhìn chung ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đối sánh CHA-MẸ được quan niệm phổ biến là cặp Đức Thánh Trần và Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Lý thuyết về Dịch được thần hoá trong thuyết phong thủy. Với quan niệm mọi sông núi gò bãi trên mặt đất đều do tác động của các vì sao, có sao xấu và sao tốt nên cũng có những thế đất xấu, tốt. Người ta thường quan niệm đặt âm phần ở thế đất tốt (“mả táng hàm rồng”) thì con cháu có phúc đức, làm ăn phát đạt và ngược lại, thế đất xấu sẽ làm hủy hoại. Ngay việc suy vong của nhà Trần, các sử gia đời sau cũng còn chép do việc đào kênh làm đứt long mạch. Dân gian giải thích Trần Hưng Đạo có được sức mạnh siêu phàm một phần vì thế đất đặt bản doanh tốt (truyền thuyết chuyển doanh trại đến chỗ chó mẹ ba lần tha con đến). Theo thuyết phong thủy thì Kiếp Bạc có thế đất lý tưởng: phía trước là sông Thương, xa một chút có sông Lục Đầu (tụ thủy), phía sau là dãy núi Rồng (hậu chẩm), hai tay ngai Nam Tào, Bắc Đẩu (tả thanh long, hữu bạch hổ). Địa linh tất sinh nhân kiệt.
Nguyên lý ngũ hành xuất hiện cuối thời Chiến Quốc đã được Đạo giáo thần hóa thành ngũ phương ngũ thần. Chuyện trói Phạm Nhan bằng chỉ ngũ sắc là một ví dụ. Không có một loại dây nào có thể bắt được tà mà, trừ loại chỉ ngũ sắc: màu xanh hành Mộc ở phương Đông có thần Thanh Đế; màu trắng hành Kim ở phương Tây có thần Bạch Đế; màu đỏ hành Hỏa ở phương Nam có thần Xích Đế, màu đen hành Thủy ở phương Bắc có thần Hắc Đế và màu vàng hành Thổ ở trung tâm có Hoàng Đế. Trong các đền chùa ta thường gặp ban thờ Ngũ Hổ cũng với ý nghĩa như vậy. Truyền thuyết còn kể chuyện cuộc giao chiến giữa Trần Hưng Đạo và Phạm Nhan được diễn ra theo trận đồ bát quái. Hơn nữa chân dung Trần Hưng Đạo – Đức Thánh Trần thường gắn với thanh kiếm thần. Đương nhiên kiếm là biểu tượng của một võ quan, nhưng đó cũng là biểu tượng của một đạo sĩ, một vật biểu trưng thường có trong Đạo giáo. Đức Thánh Trần trong trí tưởng tượng dân gian có dáng dấp của một đạo sĩ: niệm thần chú, đốc kiếm, xoã tóc. Trần Khánh Dư đã viết lời tựa trong cuốn Vạn Kiếp tông bí truyền thư “phải lấy năm hành cảm ứng với nhau, chín cung cân nhắc với nhau, cương và nhu phối hợp với nhau, chẵn và lẻ quay vòng với nhau, không lẫn âm với dương, thần với sát, phương lợi sao tốt, thần hung tướng ác, ba cát năm hung, đều rõ rệt cả”[11]. Tính “bí thuật” của cuốn sách (đã mất) có khả năng khơi nguồn cho những yếu tố mờ ảo, bí hiểm rất hấp dẫn đối với người bình dân. Họ hình dung cuộc đấu trí, đấu lực giữa Trần Hưng Đạo và Phạm Nhan như cuộc đấu giữa hai đạo sĩ và phần thắng đã thuộc về người có quyền lực siêu phàm hơn. Đó cũng là một biểu tượng dân gian muốn gửi gắm: Trần Hưng Đạo – CHÍNH KHÍ, Phạm Nhan – TÀ KHÍ, và chính khí tất yếu thắng tà khí !
Thực ra, khi lưu ý tới các yếu tố mang màu sắc Đạo giáo trong tín ngưỡng Đức Thánh Trần, chúng ta rất khó chỉ ra những gì chịu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa và những yếu tố bản địa có sẵn trong các phương thức ma thuật, sa man nguyên thủy. Các hình thức ma thuật này vốn có tính phổ biến trong tín ngưỡng dân gian của rất nhiều dân tộc ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Hơn nữa, Đạo giáo Trung Hoa cũng đã được thành hình trên cơ sở những tín ngưỡng dân gian lâu đời của chính người Trung Hoa. Chính vì thế, chúng tôi quan niệm đây chính là một thứ Đạo giáo của Việt nam (Đạo Nội). Tuy chịu ảnh hưởng đậm của Đạo giáo Trung Hoa nhưng nó đã được hình thành tồn tại và biến đổi trong hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam và để thoả mãn nhu cầu tâm linh của con người Việt Nam. Một nhà nghiên cứu nước ngoài, ông Maurice Durand đã nhận xét: “Thần linh của Nội Đạo là một anh hùng hiển linh hóa Trần Hưng Đạo. Trở nên thần linh, Ngài có chức vụ diệt trừ ma quái đúng như khi Ngài sống đã diệt trừ mà quái Mông cổ. Thầy cúng của tôn giáo này là đồng cốt mà miếu chư vị thần linh gồm có Trần Hưng Đạo với toàn gia đình hiển thánh.Tôn giáo Nội đạo cũng như tất cả tôn giáo thế giới lập cước trên một nền luân lý mà những yếu tố cấu tạo là những đức tính nhân loại như đức nhân, tinh khiết, trung thực. Nhưng, hình thức lễ nghi có liên hệ với tục lệ của Đạo giáo. Nội đạo hình thành ở Bắc Việt và có một số tín đồ. Nó phát triển nhất ở Kiếp Bạc trong tỉnh Hải Dương, nơi thánh địa của anh hùng”[12].
Tín ngưỡng Đức Thánh Trần đúng là “đã lập cước trên một nền luân lý” bền vững ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự cường cũng như lòng nhân ái bao dung “thương người như thể thương thân”. Đối với các tôn giáo ngoại lai như Phật giáo, Đạo giáo và cả Ki Tô giáo, nếu điểm nào trong các giáo lý phù hợp với nền luân lý ấy, trong hệ qui chiếu ấy, đều được người Việt chấp nhận. Ngược lại, sẽ bị người ta từ chối, gạt bỏ. Cái gọi là “động cơ tâm lý” của dân chúng dẫn tới tôn thờ vị Thần linh của Nội Đạo, hình thành hình thức tín ngưỡng dân gian đặc biệt này thực ra không ngoài việc sùng bái người anh hùng cứu nước cứu dân đã có được đầy đủ phẩm chất và tài năng theo chuẩn mực mà họ luôn mong ước: trung hiếu, nhân lễ, trí dũng, tín nghĩa.
Trong các vị thần linh của Đạo Nội (đạo trong nước), Đức Thánh Trần là nhân vật có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy không phải là vị thần sớm nhất của Đạo Nội (khi trong dân gian vẫn còn lưu danh Chử Đạo Tổ) nhưng Đức Thánh Trần là vị nhân thần đầu tiên tạo nên được một dòng tín ngưỡng riêng trong hệ thống Đạo Nội Việt nam: tín ngưỡng Đức Thánh Trần.
Bằng những kết quả khảo sát đời sống văn hóa dân gian người Việt, từ kho tàng ngữ văn: truyền thuyết, thần tích, văn bia, câu đối, từ những dấu tích vật chất của hệ thống các di tích thờ phụng: đền, miếu, đình, chùa, phủ, tĩnh, điện…, đến những sinh hoạt tế lễ hàng ngày, các kỳ sóc vọng và đặc biệt ở thời điểm lễ hội Tháng Tám giỗ Cha, có thể thấy một hiện tượng văn hóa dân gian đặc biệt: TÍN NGƯỠNG ĐỨC THÁNH TRẦN. Không gian văn hóa của tín ngưỡng trải rộng từ Bắc tới Nam.
Tín ngưỡng thờ Đức Thánh thiêng liêng đã theo bước chân lập nghiệp của người Việt đến những vùng đất mới, nhưng đặc biệt tập trung đậm đặc ở vùng xứ Nam (quê hương) và xứ Đông (thái ấp và địa bàn chiến trận). Gốc tích dân chài của vị Thánh và cuộc đời chiến trận vốn gắn liền với đường sông, cửa biển đã khiến cho không gian thiêng của Ngài bao trùm vùng sông nước, nhiều khi mang cả ý nghĩa của vị thần sông, thần cửa biển (thủy thần). Thời gian văn hóa của tín ngưỡng kéo dài suốt bẩy thế kỷ, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XIV, sau khi Trần Hưng Đạo qua đời.
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, tín ngưỡng Đức Thánh Trần luôn vận động, biến đổi trong sự tác động ảnh hưởng qua lại với các hình thức tín ngưỡng dân gian khác cũng như với các tôn giáo ngoại lai.
Tín ngưỡng Đức Thánh Trần là kết quả của quá trình thần hóa, thánh hóa một nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Những chính sách kinh tế – chính trị – văn hóa tiến bộ của nhà Trần, đặc biệt là chiến công ba lần đánh bại quân giặc Nguyên Mông – đội quân hung hãn đã từng chinh phục dày xéo cả một vùng đất rộng lớn từ Âu sang Á – đã có vai trò rất quan trọng đối với lịch sử dân tộc.
Nhân vật lỗi lạc nhất của giai đoạn lịch sử này, Hưng Đạo vương được muôn đời ngợi ca bởi tấm gương trung hiếu, khí phách kiên cường, tài năng quân sự và tấm lòng tín nghĩa. Việc ông được Thánh hóa là hiện tượng hợp qui luật của tâm thức dân gian người Việt: thần thánh hóa những con người có công với nước với dân, nhất là công lao bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Xét cả về không gian văn hóa và thời gian văn hóa của tín ngưỡng, quan sát qui trình đi từ nhân vật lịch sử đến nhân vật huyền thoại, có thể thấy đây là một hiện tượng văn hóa khá đặc biệt trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. Từ một vị anh hùng dân tộc với nhiều chiến công hiển hách, Trần Hưng Đạo đã trở thành một vị Thánh linh thiêng – Đức Thánh Trần, một Vua Cha trong mối quan hệ đối sánh Vua Cha-Thánh Mẫu, một Ngọc Hoàng của thần điện Việt Nam. Bên cạnh những chi tiết đặc biệt trong tiểu sử của người anh hùng có ý nghĩa mở đường bước vào đời sống dân gian, quá trình chuyển hóa từ người anh hùng lịch sử thành một vị Thánh diễn ra trong nhiều thế kỷ, trên cơ sở những điều kiện chính trị – văn hóa – xã hội cụ thể.
Hiện tượng sùng bái người anh hùng với việc lập sinh từ khi còn sống, lập đền thờ sau khi mất là những dạng thức sơ khai của tín ngưỡng. Sau đó, việc các vương triều cầu khẩn sự trợ giúp khi đất nước có họa xâm lăng, nhân dân kêu cầu khi ốm đau bệnh tật đã dần dần làm cho tín ngưỡng mang thêm những màu sắc mới. Thái độ cởi mở đối với tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo của các quí tộc vương hầu, kể cả chính sách của một số vương triều, nhất là sự phát triển nhu cầu tâm linh của dân chúng trong điều kiện xã hội biến động và ý chí độc lập dân tộc được đề cao, đã hình thành khuynh hướng cần xác lập một tín ngưỡng hoàn chỉnh hơn.
Tín ngưỡng Đức Thánh Trần có bản chất là tín ngưỡng thờ Phúc thần, nhưng đồng thời cũng là một tín ngưỡng phức hợp – được hội tụ bởi nhiều dạng thức tín ngưỡng: sùng bái người anh hùng hiển Thánh (Đạo Thánh), tín ngưỡng thần tiên (Đạo Tiên), tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (Đạo Tổ tiên), tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) và cả tín ngưỡng thờ thần tự nhiên (thủy thần)… Từ trong nội dung cũng như các phương thức thực thi tín ngưỡng, người ta thấy rất đậm nét những dấu ấn của Đạo giáo. Nhưng, đâu là dấu vết của Đạo giáo Trung Hoa, đâu được khởi nguồn từ tín ngưỡng ma thuật nguyên thủy bản địa, quả thực rất khó chỉ ra điều này một cách rõ ràng khi các tầng phù sa văn hóa đã được chồng xếp tầng tầng lớp lớp.
Tác giả Trần Văn Giầu đã nhận xét, phần lớn “người Việt Nam theo Đạo giáo mà không biết rằng đó là Đạo giáo vì chẳng qua những tư tưởng tín ngưỡng đó không phải chủ yếu nhập cảng từ nước ngoài mà sẵn có phần lớn trong nhân dân Việt Nam từ nguyên thủy và trong cả quá trình lịch sử. Người Việt Nam chưa có lúc nào chế tạo một cái tên chung để đặt cho loại tư tưởng tín ngưỡng đó, duy những người nghiên cứu nhận thấy tư tưởng này cùng bản chất với Đạo giáo nên xếp vào một loại vậy thôi”[13]. Dù sao, chúng ta chỉ có thể khẳng định một điều: đây là tín ngưỡng thuộc dòng Đạo Nội (với nghĩa là đạo trong nước), có ảnh hưởng ít nhiều từ Đạo giáo Trung Hoa, nhưng được hình thành, xây dựng và phát triển trên nền tảng nhu cầu tâm linh của chính người Việt Nam, những con người luôn phải tìm cách khẳng định sự độc lập dân tộc không chỉ bằng chính trị, kinh tế, quân sự mà cả bằng hoạt động văn hóa tín ngưỡng
Tín ngưỡng thờ phụng Đức Thánh Trần đang tồn tại trong xã hội Việt Nam đương đại và chắc chắn vẫn còn cơ sở xã hội để bảo tồn. Trước hết, những nhu cầu tâm linh như nguyên nhân cơ bản để hình thành tín ngưỡng vẫn bám rễ sâu trong lòng người dân Việt. Họ đã phải gồng mình lên trong suốt một thời kỳ lịch sử dài, tiếp nối tinh thần khí phách của vua tôi nhà Trần, của người anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù phương Tây, kẻ thù phương Bắc.
Lòng tự hào dân tộc, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” vốn đã trở thành tâm thức, thành lẽ tự nhiên dẫn đến các hành vi tín ngưỡng tôn sùng những người có công với nước, ví như nhân dân nhiều nơi lập ban thờ Hồ Chủ tịch, thờ các anh hùng liệt sĩ. Với tư cách một vị Phúc thần có công lớn đối với dân tộc, Trần Hưng Đạo đã tạo được một dòng tín ngưỡng riêng suốt bẩy thế kỷ, trong một không gian thiêng rộng lớn. Và hiển nhiên, tâm thức yêu nước của người Việt Nam sẽ bảo tồn truyền thống đó. Hơn nữa, để phát huy mọi nguồn sức mạnh của dân tộc cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước, các chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước cũng đề cao nhu cầu hướng thiện, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, nhất là tín ngưỡng thờ phụng người anh hùng.
Trong Nghị quyết 5 của Ban chấp hành T.Ư Đảng khóa VIII về Văn hóa mới được ban hành gần đây cũng đã khẳng định rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: “Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện…của các tôn giáo”.
Ở khía cạnh khác, tuy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra trên đất nước ta, các thành tựu khoa học – trong đó có y học – ngày càng nhiều, nhưng những bí ẩn về cuộc sống con người, những nỗi đau khổ về bệnh tật, vì “hữu sinh vô dưỡng” vẫn còn đó, nên con người vẫn còn cần có một sự trợ giúp, dù rằng chỉ mang ý nghĩa an ủi tinh thần. Các hình thức “cầu xin Đức Thánh xua đuổi tà ma” bị đánh giá là “mê tín dị đoan” theo cái nhìn duy lý của các nhà khoa học, nhưng lại rất hợp tình, hợp lý trong cảm nhận của dân gian. Sự sùng tín của họ đối với Đức Thánh thường ẩn chứa những ước vọng rất bình dị: cầu an, cầu con, cầu sức khỏe. Tất nhiên, người đặt lòng tin vào bát tàn hương, vào manh chiếu cũ, vào lời bắt quyết…phần lớn là những người có trình độ học vấn thấp và đang ở trong cảnh ngộ “có bệnh thì vái tứ phương”. Bệnh tật nếu có qua khỏi, chủ yếu do được giải thoát khỏi những lo lắng, những ức chế tâm lý. Nhưng, cũng có nhiều trường hợp “tiền mất, tật mang”.
Theo chúng tôi, nếu có những chính sách và biện pháp quản lý tốt việc thực thi tín ngưỡng, nâng cao dân trí, loại bỏ những biểu hiện “ký sinh” buôn thần bán thánh, những ma thuật ảnh hưởng đến sức khỏe con người, chúng ta sẽ có điều kiện bảo tồn và phát triển chất nhân văn quí giá của tín ngưỡng, nguồn sức mạnh tinh thần từ truyền thống tiếp sức cho con người vững bước tới tương lai.
Chú thích
[1] Ngố Sĩ Liên….Sđd
[2] Trần Văn Giầu. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến CM-8 .Tập I Nxb KHXH, H.,1973, tr.498
[3] Trần Văn Giầu. Sđd, tr.470 [4] Góp phần nghiên cứu vưn hoá Việt nam (những công trình nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Văn Huyên), tập II. Nxb KHXH, H.,1996, tr.173
[5] Góp phần nghiên cứu….Sđd, tr.179
[6] Lý Tế Xuyên. Việt điện u linh tập. Lê Hữu Mục dịch. Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960, tr.9
[7] Nguyến Đăng Thục. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I. Nxb tpHCM, 1992, tr.264
[8] Ngô Sĩ Liên…..Sđd, tr.91
[9] Trần Văn Giầu. Sđd, tr.491
[10] Tạ Chí Đại Trường. Thần, người và đát Việt. Văn Nghệ xb, California
[11] [12] Nguyến Đăng Thục…Sđd, tr.489 [13] Trần Văn Giầu…Sđd, tr.471
Các vị thánh được thờ trong Tín ngưỡng Đức Thánh Trần Các vị thánh được thờ ở nhà Trần bao gồm:
1. Vương phụ – Vương mẫu (Vương Phụ An Sinh Vương và Thiện Đạo Quốc Mẫu)
3. Vương phi phu nhân – Thiên Thành Công Chúa
4. Thầy dạy văn
5. Thầy dạy võ
6. Quan Nam Tào
7. Quan Bắc Đẩu
8. Đức Thánh Cả
9. Đức Thánh Phó (Đức Ông Đệ Nhị)
10. Đức Thánh Tam (Đức Ông Đệ Tam)
11. Đức Thánh Tứ (Đức Ông Đệ Tứ)
12. Đức tiên cô đệ nhất Quốc Mẫu (Vương Cô Đệ Nhất)
13. Đức tiên cô đệ nhị Đại Hoàng (Vương Cô Đệ Nhị)
14. Lục Bộ Đức Thánh Ông Gồm:
15. Đức Thái Bình công chúa
16. Đức Trần Bình Trọng
17. Cô Bé Cửa Suốt
18. Cậu Bé Cửa Đông
Nhà Trần không phải một phủ, sự sắp xếp nhà Trần theo gia đình chứ không theo chức tước, hàng bậc như trong Tử phủ: có vua Mẫu, các Quan, Chúa, Chầu, ông Hoàng, thánh Cô, thánh Cậu.
Tất cả nhà Trần, lục bộ thánh ông đều được phong tước, ngự áo đỏ, riêng cổ Đại Hoàng ngự áo vàng, cô Thái Bình ngự áo xanh. Đức đại vương tuyệt đối không lên đại thượng, không múa long đao, đi cờ kiếm từ vào hè trở đi, còn mùa xuân khai đền Ngài đi cờ hồng bằng khăn phủ diện. Đức đại vương không xuyên lình lấy dấu máu. Người thủ nhang đồng đền có căn mới được hầu Ngài.
Hiện nay có người nói là chỉ có sáu vị hầu mà thôi là Đức đại vương, Đức ông đệ tam, cô Đệ nhất, cô Đệ nhị, cô Cửa Suốt, cậu Cửa Suốt. Điều này là không đúng và rất tai hại cho tục thờ nhà Trần. Nhiều người nghĩ rằng lục bộ là sáu giá, nhưng lục bộ ở đây là lục bộ Đức thánh ông, sáu tướng phù giúp Đức đại vương.
Hầu nhà Trần riêng biệt, không phải tráng bóng Tam tòa thánh Mẫu. Hầu nhà Trần đều đi cờ kiếm gọi là cờ kiếm lệnh vua ban “đánh đông dẹp bắc cho an nước nhà”. Chỉ có mình Đức ông phò mã là Điện tiền tướng quân, tức tưởng tiên phong, Ngài mới đi chấp kích hoặc đao.
Ở Kiếp Bạc, sau khi hầu nhà Trần phải sang bên Nam Tào Bắc Đẩu để hầu Tứ Phủ. Ở Bảo Lộc thì ra hầu Tứ phủ ở ngoài.
Nhà Trần không phải mở phủ, người có căn nhà Trần chỉ cần làm lễ đội lệnh nhà Trần là hầu được, trước nhất chỉ hầu cô đệ nhị Đại Hoàng mà thôi. Quy định 3 năm mới được hầu nhà Trần là sai. Người đội lệnh nhà Trần trước khi mở phủ phải được đội lệnh tại điện thờ nhà Trần, hầu tráng bóng các vị sau đó mới xuống phủ hầu, đến khi hầu tạ là được phép hầu cô đệ nhị Đại Hoàng, từ đó trở đi được hầu Đức thánh ông khác nhưng không được hầu Đức đại vương.
Các quy định mà trở thành buôn bán như bây giờ ở các đền Bảo Lộc, Kiếp Bạc là cấp sắc thanh đồng, người nào cũng đến xin sắc. Trước đây các vị nào muốn thờ nhà Trần, muốn hầu nhà Trần thì phải mời pháp sư thảo sắc để vào trong 1000 vàng đại thiếc. Đạo trưởng hầu chư vị đức ông về lấy tay đập nát 1000 vàng ra lấy sắc, pháp sư tuyên đọc sau đó Ngài phê sắc, đặt tên đền điện, đóng dấu cất ấn.
Nhà Trần không phải một phủ vì vậy nhà Trần không ai phải trả mã cũng không ai nợ mã nhà Trần cả. Tất cả dâng lễ nhà Trần chỉ có hình thức tiến cúng vàng mã mà thôi. Có thể là chục vàng lá, trăm vàng đại thiếc hoặc có thể là tiểu đàn, trung đàn, đại đàn. Người có căn nhà Trần mới đội lệnh nhà Trần. Người Đinh Nhâm Quý Giáp, người có căn Ngọc Hoàng cầm mệnh, Ngũ vị Tôn quan, lục bộ khâm sai. Người hầu nhà Trần đều lập điện lập tĩnh để thờ và chủ yếu là những vị kiêm tri đôi nước trừ tà trị bệnh cấp sắc làm dấu làm bùa.
Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Tín Ngưỡng Đức Thánh Trần
Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:
Xin trân trọng cám ơn!