Ông Hoàng Mười là vị Quan Hoàng thứ mười trong hàng Thập Vị Ông Hoàng của Tín ngưỡng Tam – Tứ Phủ.
Cành hồng thấp thoáng trăng thanh,
Nghệ An có đức thánh minh ra đời.
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông, dẹp Bắc việc ngoài binh nhung.
Nguồn gốc: Con của Vua Cha Bát Hải Động Đình
Danh hiệu:
Phủ/ nơi cai quản: Địa phủ
Trang phục/Màu sắc: Áo vàng
Đền thờ:
Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần nhiều lần khác nhau để giúp dân phù đời.
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam có câu chuyện về Ông Hoàng Mười giáng thế làm người trần, phò vua giúp nước. Và nhân vật lịch sử được nhắc đến nhiều nhất chính là Lý Nhật Quang, vị hoàng tử tài ba của triều Lý.
Lý Nhật Quang, tên húy là Lý Hoảng, là con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ và Linh Hiển hoàng hậu. Ông là em cùng mẹ với vua Lý Thái Tông, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, 8 tuổi biết làm thơ, 10 tuổi đã nghiên cứu kinh sử. Được sự chăm lo dạy dỗ của vua cha và hoàng tộc, Lý Nhật Quang sớm trở thành nhân tài, gánh vác trọng trách quốc gia.
Năm 1039, ông được vua Lý Thái Tông cử vào châu Nghệ An lo việc thu thuế. Tại đây, Lý Nhật Quang ghi dấu ấn bằng sự cần mẫn, thanh liêm, chính trực, khác hẳn với những vị tiền nhiệm hà khắc. Năm 1041, ông được phong làm Tri châu Nghệ An với tước hiệu Uy Minh Hầu.
Nghệ An khi đó là vùng đất biên ải phía Nam của Đại Việt, tình hình an ninh bất ổn. Nhưng dưới sự cai quản của Lý Nhật Quang, kỷ cương phép nước được lập lại, xã hội dần ổn định. Ông thực hiện nhiều chính sách tiến bộ như thống kê hộ khẩu, chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất hoang, phát triển kinh tế, văn hóa.
Năm 1044, Lý Thái Tông tấn công Chiêm Thành, Lý Nhật Quang được giao nhiệm vụ chuẩn bị hậu cần. Nhờ sự chu đáo của ông, quân đội Đại Việt chiến thắng vang dội. Lý Nhật Quang được vua ban thưởng, phong tước Vương.
Không chỉ là vị quan tài ba, Lý Nhật Quang còn là người có tấm lòng nhân ái, luôn chăm lo đến đời sống của người dân. Ông khuyến khích sản xuất, dạy dân nghề nông tang, dệt lụa, đào kênh, nạo vét sông, đắp đê, xây dựng chùa chiền… Ông được người dân Nghệ Tĩnh yêu mến, kính trọng, tôn làm bậc Thánh.
Cho đến ngày nay, nhiều đền thờ Lý Nhật Quang vẫn được người dân gìn giữ, hương khói quanh năm. Câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của ông, dù được truyền miệng qua bao thế hệ, vẫn in đậm trong tâm thức người dân, như một minh chứng cho sự giáng thế của Ông Hoàng Mười để phò vua giúp nước, cứu dân độ thế.
Sự tích được lưu truyền nhiều nhất là Ông Mười giáng thể làm Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà).
guyễn Xí (1396-1465) sinh ra tại vùng đất Nghệ An, quê hương của Ông Hoàng Mười. Ngay từ nhỏ, ông đã bộc lộ khí chất hơn người. Năm 9 tuổi, Nguyễn Xí đã gặp Lê Lợi và sau này trở thành người nhà của vị thủ lĩnh khởi nghĩa Lam Sơn.
Với tài năng võ nghệ xuất chúng, Nguyễn Xí được Lê Lợi tin tưởng giao trọng trách chỉ huy quân đội. Ông lập nhiều chiến công hiển hách trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước.
Những trận đánh oanh liệt
Sau khi Lê Lợi lên ngôi vua, Nguyễn Xí tiếp tục cống hiến cho triều đình, gánh vác nhiều trọng trách quan trọng. Ông luôn thể hiện sự trung thành, chính trực, được các đời vua Lê tin tưởng.
Không chỉ là vị tướng tài ba, Nguyễn Xí còn là người có tấm lòng nhân ái, luôn quan tâm đến đời sống của người dân. Ông được người dân Nghệ Tĩnh yêu mến, tôn kính. Truyền thuyết kể rằng, khi trấn giữ Nghệ An, ông đã mở kho lương cứu đói, sai quân đốn gỗ dựng nhà cho dân sau cơn bão.
Sau khi Nguyễn Xí qua đời, người dân đã lập đền thờ ông ở nhiều nơi. Hình ảnh vị tướng tài ba, văn võ song toàn, yêu nước thương dân đã hòa quyện với hình tượng Ông Hoàng Mười trong tâm thức người dân. Ông được suy tôn là hiện thân của Ông Hoàng Mười giáng thế, phò vua giúp nước, cứu dân độ thế.
Bên cạnh Nguyễn Xí, tín ngưỡng dân gian còn cho rằng Ông Hoàng Mười đã giáng thế thành Lê Khôi, một vị tướng tài ba khác trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Khôi (? – 1446), người làng Lam Sơn (nay thuộc Thanh Hóa), là cháu ruột của Lê Lợi. Ông tham gia khởi nghĩa ngay từ những ngày đầu và lập được nhiều chiến công hiển hách.
Dù còn trẻ tuổi, Lê Khôi đã sớm thể hiện tài năng quân sự xuất chúng. Ông được ghi nhận là người dũng cảm, gan dạ, luôn xông pha nơi trận tiền.
Sau khi nhà Lê sơ được thành lập, Lê Khôi được giao trọng trách trấn giữ vùng biên cương phía Nam, giáp với Chiêm Thành. Ông đã góp phần ổn định tình hình, bảo vệ bờ cõi, mang lại cuộc sống ấm no cho người dân.
Lê Khôi cũng tham gia dẹp loạn ở Thái Nguyên và đánh tan quân Chiêm Thành xâm lược. Ông được đánh giá là vị tướng tài ba, có công lớn với đất nước.
Lê Khôi mất năm 1446 tại Hà Tĩnh. Dù không có nhiều ghi chép về cuộc đời ông, nhưng những chiến công và sự nghiệp của Lê Khôi đã in đậm trong lịch sử dân tộc. Người dân tin rằng, tài năng và đức độ của ông chính là sự hiển linh của Ông Hoàng Mười, vị thần luôn che chở, bảo vệ đất nước và con người.
Một trong những sự tích khác được lưu truyền là Ông Mười giáng thể làm Nguyễn Duy Lạc, danh tướng thời nhà Lê có đền thờ tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông được nhân thế hoá, phàm tục hoá thành Thái uý Vĩ quốc công, trở thành vị thần chính ở đền Xuân Am hay đền Đức Thánh Hoàng Mười, còn gọi là Mỏ Hạc Linh Từ.
Nguyễn Duy Lạc là một trong những tướng lĩnh tài giỏi, có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đã tham gia nhiều trận đánh quan trọng, lập nên những chiến công hiển hách, góp phần đánh đuổi giặc Minh, giải phóng đất nước.
Đặc biệt, trong trận Âm Công, Nguyễn Duy Lạc đã thể hiện tài năng quân sự xuất chúng. Bằng chiến thuật nghi binh tài tình, ông đã đánh bại quân Minh, khiến chúng “kinh hồn bạt vía”. Tuy nhiên, trong trận chiến này, ông đã bị thương nặng và hy sinh khi trở về quê nhà.
Trước sự hy sinh của Nguyễn Duy Lạc, triều đình và nhân dân vô cùng thương tiếc. Vua Lê đã ban tặng đất Âm Công làm nơi tưởng nhớ công ơn của ông, đồng thời ban tặng 4 câu thơ ca ngợi lòng dũng cảm, trung nghĩa của vị tướng tài ba:
Đế thích long chương khai thái vận
Thiên sinh thần võ dực hồng đồ
Sinh bất hư sinh, sinh nghĩa đảm
Từ thuỷ vô tử, tử trung can.
Tạm dịch
Vua tặng sắc phong mừng vận đẹp
Trời sinh tướng giỏi giúp non sông
Sống chẳng sống thừa lòng nghĩa dũng
Chết mà không chết dạ can trường.
Có nhiều quan điểm khác nhau về sự giáng thế của Ông Hoàng Mười. Một số người cho rằng Ngài đã hóa thân thành một nhân vật lịch sử cụ thể, trong khi số khác tin rằng Ngài là hiện thân của nhiều vị anh hùng đã có công với dân, với nước.
Cá nhân tôi đồng tình với quan điểm thứ hai. Ông Hoàng Mười là hình ảnh tập hợp của nhiều thế hệ anh hùng, những người tài đức vẹn toàn, đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ đất nước. Trong số đó, có thể kể đến Lý Nhật Quang, Nguyễn Xí, Lê Khôi, Nguyễn Duy Lạc…
Tuy nhiên, nếu xét về tính logic, sự giáng thế của Ông Hoàng Mười thành Nguyễn Xí có vẻ hợp lý hơn cả. Dưới đây là một số lý do:
Nguyễn Xí sinh ra và mất tại Nghệ An, quê hương của Ông Hoàng Mười. Trong khi đó, Lý Nhật Quang sinh ra ở kinh đô, Lê Khôi sinh ra ở Thanh Hóa.
Nguyễn Xí mất vào tháng 10, tháng mà người dân tổ chức tiệc thờ cúng Ông Hoàng Mười. Các nhân vật khác đều mất vào những thời điểm khác nhau.
Mặc dù vậy, tôi vẫn cho rằng Ông Hoàng Mười là hiện thân của nhiều vị tướng tài ba, chứ không chỉ bó hẹp trong một nhân vật cụ thể nào. Chính sự kết hợp của những phẩm chất cao đẹp từ các vị anh hùng đã tạo nên hình tượng Ông Hoàng Mười vĩ đại, linh thiêng trong lòng người dân.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Ông Hoàng Mười là một trong hai vị Ông Hoàng thường xuyên ngự đồng (cùng với Ông Hoàng Bảy). Ngài được xem là người được Vua Mẫu giao cho nhiệm vụ đi chấm lính, nhận đồng. Khác với Ông Hoàng Bảy, những người có căn Ông Hoàng Mười thường mang vẻ ngoài hào hoa, phong nhã, giỏi thi phú văn chương.
Khi ngự đồng, Ông Hoàng Mười thường mặc áo vàng thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài kim lệch màu vàng kim. Vẻ đẹp của Ngài toát lên sự oai phong, uy nghiêm nhưng cũng không kém phần nho nhã, thanh tao.
Các màn hầu:
Lễ vật dâng:
Người ta thường dâng tờ tiền 10.000 đồng màu đỏ vàng làm lá cờ cài lên đầu Ông. Khi Ông ngự vui, thường dâng đại chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá – những đặc sản của quê hương Nghệ An. Cung văn sẽ tấu lên những điệu hò xứ Nghệ mượt mà, êm tai, tạo nên không khí trang nghiêm và thiêng liêng.
Theo quan niệm dân gian, số mệnh mỗi người đều được “thiên cơ” định sẵn, chịu ảnh hưởng bởi “nghiệp duyên” từ kiếp trước. Nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến những kết quả khác nhau trong cuộc sống hiện tại. Những người được chọn làm “lính” của Ông Hoàng Mười đều mang duyên nợ đặc biệt với Ngài từ kiếp trước. Họ tin rằng mình đã được Ngài cứu giúp, và kiếp này, họ được chọn để trả ơn.
Duyên nợ này, như sợi dây vô hình, kết nối họ với vị thần linh thiêng. Khi “căn duyên” đến, Ông Hoàng Mười sẽ “dẫn đường chỉ lối”, giúp họ nhận ra “chân gốc bản mệnh” và có cơ hội báo đáp ân tình. Đây cũng là lúc con người ta tìm về với tín ngưỡng, với sự che chở của thần linh.
Rất nhiều người khi tìm hiểu về Ông Hoàng Mười đều tự hỏi: “Liệu mình có duyên với Ngài hay không?”. Câu trả lời có thể nằm ở một vài dấu hiệu sau:
Giấc mơ: Nhiều người tin rằng, giấc mơ là cánh cửa kết nối với tiềm thức, nơi lưu giữ những ký ức và kết nối tâm linh, kể cả với Ông Hoàng Mười.
Tính cách: Người có căn Ông Hoàng Mười thường có chí tiến thủ, cầu toàn trong công việc, tâm tư đa sầu đa cảm. Họ không thích tranh đấu, nhưng một khi đã phải đương đầu, họ sẽ có những sách lược riêng.
Bản tính: Họ thường khoan thai, nho nhã, khiêm cung. Trước khi biết đến Ông Hoàng Mười, con đường công danh sự nghiệp của họ có thể gặp nhiều trắc trở, khó khăn.
Quan điểm: Một số người cho rằng, người có căn Ông Hoàng Mười thường hào hoa phong nhã, tâm hồn bay bổng, giỏi thi phú văn chương. Họ có đường công danh rộng mở, tiền tài xán lạn, thường đỗ đạt làm quan to, có uy quyền.
Tuy nhiên, việc nhận biết căn duyên còn phụ thuộc vào “âm phúc” của mỗi người và hoàn cảnh “ngộ duyên”. Quan trọng hơn cả, khi đã nhận biết được căn duyên, chúng ta cần giữ lòng thành kính, “uống nước nhớ nguồn”, sống tốt đời đẹp đạo để báo đáp ân đức của Ông Hoàng Mười.
Theo các tư liệu được tìm thấy, Tín Ngưỡng Việt đã sưu tầm được 1 bản văn Ông Hoàng Mười và các đoạn Thơ, Phú cùng những đoạn Cải Lương…
Trích đoạn
Thanh xuân một đấng anh hùng.
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam.
Hai vai nặng gánh cương thường,
Sông Lam sóng cả, buồm dương một chèo.
Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu,
Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi.
Khi Bích động lúc Bồng lai,
Non nhân, nước trí mọi nơi ra vào
Xem đầy đủ bản văn Ông Hoàng Mười
Ngoài việc được thờ tại ban Tứ Phủ Thánh Hoàng thì Ông Hoàng Mười được thờ tại rất nhiều đền – phủ từ Bắc tới Nam. Tuy nhiên, nhắc đến Đền Ông Mười thì đầu tiên phải nói đến Đền Củi (Hà Tĩnh), Mỏ Hạc Linh Từ (Nghệ An) và Đền Dinh Đô Ông Hoàng Mười (Hà Tĩnh)
Đền Chợ Củi, còn gọi là đền Hoàng Mười ở xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh nổi tiếng linh thiêng. Nơi đây hằng năm thu hút đông đảo khách thập hương vãn cảnh, cầu phúc lộc.
Đền Chợ Củi chính là nơi năm xưa di quan ông về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Soi mình bên dòng sông Lam hiền hòa, tựa lưng vào dãy núi Hồng Lĩnh, phong cảnh đền Chợ Củi hết sức hữu tình, thơ mộng. Bên cạnh sự linh thiêng, trang nghiêm, đền Chợ Củi mang trong mình một nét đẹp văn hóa riêng.
Đền Ông Hoàng Mười được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1ha ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay, đền có 3 toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.
Mộ đức thánh Hoàng Mười cũng nằm trong khu di tích Mỏ Hạc Linh Từ ở Xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên – Nghệ An. Tương truyền đây chính là lăng mộ của ông Nguyễn Duy Lạc – một hiện thân của Thánh Hoàng Mười. Trên án thờ có đắp thanh gươm và cây bút lớn vươn thẳng lên trời xanh.
Ngày 23/11/2014, Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười đã chính thức khánh thành tại phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
Đền Cả Dinh Đô Quan Hoàng Mười trong những thập niên qua đã bị phế tích. Theo tài liệu được cơ quan chuyên môn cấp trên cung cấp và những ý kiến của các cụ cao tuổi trong địa phương kể lại, Đền Cả Dinh Đô Quan Hoàng Mười được xây dựng vào khoảng năm 1060 (thời Nhà Lý). Đền tọa lạc vùng ngoài đê La Giang, tại ngã ba giao nhau giữa Kênh nhà Lê, Sông La và Sông Lam. Đền còn có tên gọi của địa danh đó là “Mỏ Hạc Linh Từ”.
Ông Hoàng Mười là vị thánh Hoàng nổi danh tai hoa, sang trọng, văn võ kiêm toàn. Huyền tích về Ông Mười trong dân gian có nhiều, tương tuyền ông quê Nghệ An, có nhiều công lao vào dân, với nước.
Đền Ông Hoàng Mười thờ chính Quan Hoàng Mười. Nơi đây còn thờ các vị Phúc Thần như: Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu và cácvị Thánh Tứ Phủ, Song Đồng Ngọc Nữ, Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung,…
Người có căn Ông Hoàng Mười thường là người hào hoa phong nhã, tâm hồn bay bổng, giỏi thi phú văn chương, có đường công danh rộng mở, tiền tài xán lạn, thường đỗ đạt làm quan to chức trọng có uy quyền.
Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Ông Hoàng Mười.
Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:
Xin trân trọng cám ơn!
Tham khảo thêm
Xem thêm thần tích Thập Vị Ông Hoàng