Nghi Thức Hầu Đồng Trong Tín Ngưỡng Tứ Phủ

Chim Phượng 2

Hầu đồng, lên đồng là gì?

Hau dong, len dong la gi?

Theo Bách khoa toàn thư mở, lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian (dòng Saman giáo) của nhiều dân tộc trong đó có Việt Nam. Về bản chất đây là nghi thức giao tiếp thần kinh thông qua một người, trong trường hợp này chính là ông đồng, bà đồng. Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập vào một người trong điều kiện nào đó, dân gian gọi là cỏ căn, có số và trong một hoàn cảnh nào đó, có thể là một buổi lễ, một khóa đồng… Thần linh qua người lên đồng có thể phản truyền, trừ tà ma, ban tài lộc, chữa bệnh v.v… cho những người dự lễ (dự đồng).

Ở Việt Nam, lên đồng là lễ trọng của tín ngưỡng Tam Tứ Phủ. Người trực tiếp lên đồng, tức là người được thánh thần nhập hồn vào gọi là thanh đồng. Nam giới làm thanh đồng được gọi là cậu, nữ gọi là cô. Hầu đồng trong đạo Tứ Phủ các thánh nhập liên tiếp vào một thanh đồng, phán truyền và ban phát tài lộc (dĩ nhiên là đồ thật và có tính tượng trưng). Các thánh trong đạo Tứ phủ khoảng 50 người, hầu hết là các nhân vật theo các huyền thoại, có công với đất nước.

Nhưng lên đồng còn có nhiều biến thể khác, như với người Việt có lên đồng Đức thánh Trần, gọi hồn, nhập hồn… với người Thái là lễ Một, người Mường là lễ Mời, người Tày là Then… Ở một số biến thể lên đồng như lên đồng Đức thánh Trần trước đây còn có những hành động như đi trên than hồng, xiên hình (dùng dùi đâm vào hai má, đâm vào mạng sườn), đai (dùng đây lụa thắt cổ)… Còn có một hình thức giống như lên đồng là hình thức nhập hồn, gọi hồn hiện đang phổ biến tại các trung tâm tìm mộ hiện nay là để cho hồn ma người chết nhập vào người sống phán truyền những điều người chết cần thông báo như hài cốt, của cải còn giấu…

Những biến thể này rất khác với hầu đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu, mặc dù cùng chung một nguồn gốc Saman giáo. Chính những biến thể có nhiều hình thức ghê rợn, bạo lực hoặc quả kỳ bí dễ bị lợi dụng này đã làm xấu đi hình ảnh của hầu bóng. Như trên đã nói hầu bóng là nghi lễ chính của tín ngưỡng thờ Mẫu mà người chủ trì chính là thanh đồng.

Thông thường thanh đồng phải là những người có căn đồng, nói theo ngôn ngữ hiện đại là dễ bị ám thị, hoặc tự ám thị. Người có căn đồng phải theo học thầy, tức là những thanh đồng lâu năm, biết hết các lễ nghi, các vũ đạo, thậm chí cả hát văn, biết các lề lối vào giá, ra giá, trang phục, bày lễ… Sau khi được thừa nhận có căn đồng, thanh đồng mới phải làm một lễ ra mắt, gọi là ra đàn. Có hai loại lễ ra đàn là đại đàn và tiến cẩn. Đại đàn là lễ ba ngày, tiến cẩn là lễ vắn (ngắn) một ngày. Sau đó đồng mới được gọi là thanh đồng. Mỗi năm thanh đồng phải lên đồng ít nhất một lần (vấn, khóa).

Theo tín ngưỡng Tứ Phủ, hiện nay hầu bóng có 36 giá, tức là có 36 vị thánh thường nhập vào các thanh đồng trong lễ hầu bóng. Các vị thánh nhập về làm 36 giá, gồm có: Tam tòa Thánh mẫu, Ngũ quan từ đệ nhất đến đệ ngũ: quan lớn tuần tranh, mười một giá chầu từ chầu bà đệ nhất đến chầu bà Bắc Lệ, phủ quan hoàng có 10 vị nhưng thường hầu giá 3 vị Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười. Các Cô có 12 cô nhưng thường hầu giá 3 cô: cô Bơ, cô Chín, cô Bé. Các Cậu gồm có 4 cậu: Cậu Cả, cậu Hai, cậu Ba và cậu Bé.

Mỗi vị thánh lần lượt nhập vào thanh đồng, tuy nhiên rất ít thanh đồng hầu đủ 36 giá. Thường họ chỉ hầu 6, 9, 12 giá tùy vào căn mệnh của họ. Mỗi giá đồng thanh đồng mặc trang phục khác nhau phù hợp với vị thành sắp nhập vào họ. Ví dụ Mẫu thượng thiên áo đỏ, Mẫu thượng ngàn áo xanh, Mẫu Thoải áo trắng. Mỗi lần thánh nhập và sau đó ra đi, gọi là thăng, kết thúc một giả đồng. Sự khác biệt giữa hầu đồng tín ngưỡng thờ Mẫu và các loại lên đồng khác của Saman giáo chính là rất nhiều các vị thánh lần lượt nhập vào thanh đồng trong một lễ hầu bóng. Đến vị thánh nào nhập vào, thanh đồng ăn mặc và múa mô tả các hoạt đồng và tính cách của vị thánh đó, trong tiếng nhạc, tiếng hát văn ca ngợi công đức của vị thánh. Quá trình múa hát, thanh đồng do tự ám thị trong khung cảnh lễ hội với nhau và tiếng hát, gần như nhập vai vào vị thánh và vì vậy hoạt động, múa rất tự nhiên.

Nét đặc sắc của lên đồng, được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài quan tâm chính là chầu văn. Nếu hầu bóng là nghi lễ chính của tín ngưỡng thờ Mẫu, thì chầu văn chính là nhạc lễ của tín ngưỡng này. Bởi có tính dân gian, truyền khẩu là chính vì vậy hát văn có nhiều làn điệu, có nhiều dị bản cả về ca từ lẫn giai điệu. Khi kết hợp với không khí hầu bóng với khăn chầu, áo ngự với hương khói và cả không khí phấn khích của dàn nhạc, các nghệ sĩ hát văn nhiều khi ngẫu hứng cải biên thêm bớt hoặc bỗng thêm vào làn điệu của các loại dân ca khác như quan họ, ca Huế… đều được cả. Chính vì vậy trong hát văn hầu bóng người ta thấy đâu đó cả chèo, tuồng, dân ca ba miền. Đó là một loại dân ca mở, luôn luôn tiếp nhận và phát triển.

Canh hoa trang

Căn nguyên của việc hầu đồng

Trước đây, bàn về nguyên nhân ra hầu đồng đã có nhiều thông tin sai lệch cho rằng phần lớn người tham gia hầu đồng do sự lôi kéo, xúi giục có biểu hiện lừa đảo trục lợi của một số kẻ lợi dụng tín ngưỡng cò mồi. Trong thực tế, hầu đồng có nhiều người ham mê, thậm chí cuồng tín với hầu đồng, nguyên nhân thường gọi chung là có căn (cốt), có quả. Vậy thể nào là căn quả của người hầu đồng?

Người có căn (cốt) hầu đồng phải hội tụ 3 yếu tố như: Khi đến các đền, phủ có cảm giác khác lạ, thay đổi trong người; Trong cuộc sống có nhiều lần gặp sự vất vả, bất trắc mà không phải nguyên nhân tự thân gây ra, không thể giải thích được; Họ thường mơ thấy các vị trong thế giới thần linh…

Mỗi người có lý do riêng để ra hầu đồng. Có nhiều người hầu đồng là truyền thống gia đình, một nhà có 3 – 5 thế hệ “hầu” thánh. Một số người thì cầu mong sự bình an cho những người thân, kinh doanh buôn bán được thuận lợi, giải tai nạn, tai vạ, độ tai ách… Đặc biệt, phần lớn là muốn cân bằng những đau đớn, buồn tủi và mất mát không thể bù đắp như mất người thân, tổn thương tình cảm vợ chồng…

Tham khảo thêm: Người có căn là gì

Giới hầu đồng cho rằng, một số trường hợp người có căn đồng nhưng “phạm” không ra hầu nên bị “hành”. Mà bị “hành” ở đây là mất cân bằng trong cuộc sống, làm những điều mà người bình thường không bao giờ làm vì cho là “hành xác”, nhục thân… Bản chất người Việt đều có tín tâm bởi ai cũng thờ cúng ông bà, tổ tiên. Khi gặp những vấn đề trắc trở trong cuộc sống không thể vượt qua cần có tín niệm để dựa vào, khi đó hầu đồng sẽ là một cứu cánh.

Một số người hầu đồng lâu năm cho rằng, để giải nghiệp là cả một quá trình chứ không phải dựa vào trình đồng mở phủ. Nếu thực sự có căn quả và phải trả nợ nghiệp chướng đã gây ra thì khó tránh khỏi được vì đó là luật nhân quả. Tốt nhất trước khi quyết định việc trình đồng hay mở phủ nên tự bản thân mình sám hối trước các Thánh. Không gì bằng mình tự kêu cầu như làm một lễ đơn giản có quả cau lá trầu xin các Thánh tha lỗi. Tiếp đến nên làm nhiều việc tốt như giúp đỡ người nghèo khó, sống có đạo đức, có điều kiện thì góp công, của để tô tượng, đúc chuông, sửa đền, miếu… Nếu có thể tụng kinh, hướng công đức của những việc mình làm tới các Thánh sẽ tốt hơn việc phung phi tiền vào vàng mã, lễ lạt…

Tìm hiều đầy đủ hơn: Lịch sử nghi thức lên đồng – hầu bóng

Canh hoa trang

Chuẩn bị cho buổi hầu đồng

Chuan bi cho buoi hau dong

Chọn ngày: Người hầu đồng trước tiên phải chọn ngày lành tháng tốt để chuẩn bị hầu với thủ nhang nhà đền, phủ hay điện.

Dàn nhạc Hầu Bóng: Dàn nhạc hầu bóng gồm có 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 1 sáo, 1 trống lớn, 1 trống nhỏ, 1 cảnh đôi, 1 phách. Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác, nhưng người ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi vì đây là những nhạc cụ nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc Hầu Bóng..

Nhân sự cho một buổi hầu đồng: Hai người phụ đồng là người thân hay người trong hội hoặc trong nhóm và một ban cung văn.

Trang phục: Trang phục thích hợp cho từng vị thánh, thần nhập đồng. Vì vậy người hầu đồng phải chuẩn bị đầy đủ trang phục tùy theo định hầu mấy giá. Thường thì cần những trang phục sau đây:

  • Khăn đỏ phủ diện
  • Ít nhất là 5 chiếc áo dài mầu sắc khác nhau và một quần dài trắng
  • Khăn tấu hương và một ít loại khăn khác
  • Thắt đai lưng mầu
  • Thẻ ngà, kiềng bạc, vòng, hoa tai, chuỗi hạt, xuyển, quạt và son phấn
  • Tuy nhiên cũng có trường hợp, người hầu đồng chỉ cần một vuông vải đỏ.

Mầu sắc của trang phục phải phù hợp với mầu sắc của từng phủ. Mầu đỏ Thiên Phủ, mầu vàng Địa Phủ, mầu xanh Nhạc Phủ và mầu trắng Thoải Phủ.

Lễ vật: Lễ vật trình đồng phải khác với lễ vật hầu bản mệnh hay tiệc khao, được trình bày trên một kỷ tháp hình chữ nhật kê chính giữa và gồm những thứ sau đây: Chén đũa bạc, đĩa và cốc pha lê chính giữa là một cái gương trên phủ một chiếc khăn thêu. Hai bên bục và trước kỷ (bày bốn mâm lễ Tứ Phủ mỗi mâm có chín quả trứng, một cái lược, một cái quạt, một đôi guốc, chín vuông vải nhiễu mầu phủ lên trên (nhiễu hoặc lụa). Mầu phải là màu chính của Tứ Phủ (Xanh, đỏ, trắng và vàng). Bên cạnh mâm lễ có một cái chung nhỏ, một cái thau nhỏ. Cứ mỗi lễ phải thay một hình nhân (nôm) và bốn lốt. Bên cạnh mâm lễ Tứ phủ là mâm lễ sơn trang, mà bất cứ thứ lễ gì cũng phải chia ra làm 13 phần. Một phần lớn bày ở giữa còn 12 phần nhỏ bày xung quanh. Ngay cạnh đó là một mâm hài sơn trang (hoặc giống) mầu. Mũi hài có thêu hình chim phượng. Một trăm vàng thoi (Giấy vàng xếp thành thoi). Ở dưới bệ, trước bàn thờ bầy đủ các loại mã và một chiếc thuyền rồng hình cánh phượng có 12 hình nhân chèo thuyền, một đôi ngựa và một đôi voi có đủ yên cương và hàm thiếc. Những đồ dùng mã người ta sẽ hóa (đốt) sau khi lễ. Ngày nay lễ vật có thay đổi đôi chút tùy nơi, tuy nhiên vẫn phải giữ căn bản tối thiểu tùy đồng tiền dâng cúng.

Xem thêm: Lễ vật tiến cúng trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ

Canh hoa trang

Trình tự một buổi hầu đồng

Bắt đầu buổi hầu đồng người ta đặt các lễ vật lên hương án. Người hầu đồng để các dụng cụ lên chiếu đồng, bước lên chiếu đồng, lấy hoa xoa lên mặt, quần áo rồi vẩy xung quanh để tẩy uế. Cung văn lên giây đàn, dạo nhạc, hát văn công đồng. Ba động tác tiên khởi mà người hầu đồng phải làm là: Chấp tay chờ cho phụ đồng phủ khăn diện lên đầu trùm cả tay xong thì đưa tay lên trán rồi bước chân trái lên một bước, chân phải chụm lên với chân trái, lập lại thêm hai lần mới quỳ xuống. Người hầu đồng làm lễ vái dập người, hai tay chống xuống chiếu, mặt úp sát, vái ba lễ. Sau đó đứng dậy đi dật lùi ba bước về vị trí cũ. Giá đệ nhất được bắt đầu.

Cũng như giá đầu, khi sang một giá khác, người hầu đồng sau khi thay đổi trang phục và lễ cụ sẽ bước lên chiếu đồng, cung văn chuẩn bị tấu nhạc. Người hầu đồng đầu đội khăn xếp, ngồi xếp bằng. Người phụ đồng kính cẩn đưa một chiếc khăn phủ diện mầu đỏ. Hầu đồng cầm khăn, vái mấy vái rồi phủ lên đầu, hai tay cầm hai mép khăn phủ ở đầu gối. Một lúc sau đầu hầu đồng lắc lư, đảo đảo rồi bất ngờ hét lên một tiếng, chỉ ngón trỏ trái lên trời. Đó là dấu hiệu giá quan lớn đệ nhất nhập đồng.

Một Giá Đồng Có Thể Tiến theo Trình Tự Sau:

Thay Lễ phục:

Mỗi vị thánh đều có lễ phục riêng phù hợp với danh hiệu của vị đó và mầu sắc cũng khác biệt tùy từng phủ, từng gốc tích sắc tộc gốc, phẩm hàm cũng như văn hay võ.

Dâng hương hành lễ:

Đây là một nghi thức không thể thiếu được cho bất cứ giá nào. Hầu đồng tay trái cầm một bỏ nhang đã đốt sẵn, bóc trong một chiếc khăn có tẩm hương. Tay phải rút một nén nhang rồi huơ lên bó nhang trong tay làm động tác phù phép mà ngôn ngữ hầu đồng gọi là khai quang, để xua đuổi tà ma.

Dang huong hanh le

Lễ thánh giáng:

Khi hầu đồng có thánh nhập vào thì buông các nén hương đang cầm theo tay chắp, nghiêng mình ra hiệu thánh thuộc hạng thứ bậc nào.

Có hai hình thức thánh giáng

  • Giáng trùm khăn (hầu tráng mạn) với các giá thánh mẫu. Mẫu chỉ đến chứng giám rồi đi ngay.
  • Giáng mở khăn – với các hàng quan trở xuống.

Khi thánh đã nhập, người hầu đồng không còn là người phàm nữa, xuất thần, tự thôi miên đã giúp cho họ nhảy múa một cách uyển chuyển, nhịp nhàng mà bình thường họ không làm được. Đó chính là hứng khởi mang tính tâm linh tôn giáo (Chỉ có ở một số người).

Múa đồng:

Múa đồng là một hình thức diễn xướng đã được cách điểm hóa, khẳng định sự ứng nhập của thần linh. Bởi vậy động tác múa khác nhau tùy theo từng vị thánh. Nhưng chung chung thì thấy có ảnh hưởng của chèo và vũ điệu dân gian.

Mỗi động tác múa trong các giá chầu phản ánh con người thật của vị thánh giảng đồng.Khi múa đồng thì ông đồng bà cốt sử dụng một số lễ cụ như kiếm, đao, gậy, mái chèo, quạt hay cờ…

Trước khi sử dụng lễ cụ, người hầu đồng bắt chéo hai dụng cụ lên trước trận, sau đó cúi đầu làm lễ. Khi múa xong một giá, người hầu đồng lại bắt chéo hai lễ cụ trước trán để tạ lễ.

Mua dong

Ban Lộc và nghe Văn chầu:

Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc, thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu thuốc lá, trầu nước v.v… Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cương (khai quang) cho thanh sạch.

Lúc này những người ngồi dự chung quanh đến gần để cầu xin hoặc nghe thánh phán truyền. Và đây cũng là lúc thánh phát lộc. Lộc thánh gồm nhiều thứ như: hoa quả, bánh trái, gương lược, tiền bạc, nén nhang cháy v.v.

Thánh thăng:

Cuối cùng là dấu hiệu thánh thăng. Người hầu đồng ngồi yên, hai tay bắt chéo trước trán quạt che lên đỉnh đầu, khẽ rung mình, lúc ấy hai người phụ hầu đồng cấp tốc phủ khăn diện lên đầu người hầu đồng, cung văn trổi nhạc và hát điệu thánh xa giá hồi cung.

Thanh thang

Áo bản mệnh

Áo bản mệnh là cái gốc, cơ bản nhất trong hầu đồng, vì vậy bắt buộc phải có trong nghi thức hầu đồng. Áo bản mệnh là áo được “chứng” khi thanh đồng ra hầu đồng. Hiện nay có một số đối tượng mặc áo Mẫu để hầu Mẫu còn áo bản mệnh được cúng lễ khai chứng đàng hoàng thì không mặc, đây là điều không đúng.

Khăn phủ diện

Khăn phủ diện là một khăn màu đỏ dùng để phủ lên người hầu đồng khi bắt đầu hay kết thúc một giá hầu. Theo quy định thì khăn phủ điện luôn luôn có màu đỏ. Một số người dùng khăn phủ diện màu vàng là sai. Không có khăn phủ diện màu vàng.

Ao ban menh va khan phu dien

Trước khi hầu thánh

Trước 3 ngày ra hầu, thanh đồng phải tắm gội, chay tịnh, giữ thân trong sạch. Ngày lên hầu, thanh đồng khi nhập phủ phải tĩnh tâm, lắng đọng quên hết mọi tục niệm quanh thân, bỏ qua hết những đau khổ, hiềm khích để vào hầu Thánh. Nếu không làm được những điều này, thanh đồng sẽ không thể có vấn hầu thành công cũng không thể tìm được sự giải thoát cho tâm linh cũng như tìm đến nguồn cội tín niệm vào thánh Mẫu mà bản thân mình theo đuổi.

Canh hoa trang

Những giá không được phép hầu

Trong nghi thức hầu bóng không hầu Phật và Quan Âm Bồ Tát. Lý do là vì Phật và Bồ Tát không phải là Thánh, không phải Thần Linh nằm trong Tứ Phủ, vì vậy mà các ngài cũng không bao giờ giảng đồng hay nhập hồn.

Tương tự như vậy cũng không được phép hầu các giá Vua Cha: Vua Cha Đế Thích, Vua Cha Ngọc Hoàng, Vua Cha Bát Hải Động Đình, … Vì các ngài ở ngôi vị Vua Cha, là ngôi cao nhất rồi, cho nên các ngài không bao giờ ra khỏi cung cấm để giáng đồng. Để đơn giản có thể hiểu giáng đồng cũng như là làm việc vậy, làm việc thì chỉ có các quan chứ vua thì không phải làm việc, do vậy mà ta không hầu các giá các vị Đức Vua Cha.

Canh hoa trang

Thứ tự thỉnh giá mẫu

Hiện nay trong nghi thức hầu bóng có hai cách Thịnh Mẫu là:

  • Cách 1: Thỉnh Mẫu Thiên Tiên -> Mẫu Địa Tiên -> Mẫu Thủy Tiên.
  • Cách 2: Thỉnh Mẫu Địa Tiên -> Mẫu Nhạc Tiên ->Mẫu Thủy Tiên.

Tuy nhiên trong hai cách trên thì tác giả nhận thấy cách thỉnh thứ nhất là chuẩn mực và nên được công nhận chính thức, còn cách thỉnh thứ hai cần loại bỏ vì những lý do sau:

Thứ nhất: Cách thỉnh thứ nhất là cách đã có nguyên bản từ xưa, khi mà tín ngưỡng Tứ Phủ chưa hình thành, lúc đó mới chỉ có khái niệm Tam Phủ thì thỉnh ba Mẫu theo thứ tự như trên là chuẩn mực.

Thứ hai: Nếu thỉnh theo cách thứ nhất thì sau đó Mẫu Nhạc Tiên vẫn có thể được hầu sau đó, Mẫu Nhạc Tiên chính là Chúa Sơn Trang. Nếu làm theo cách thứ nhất như vậy thì sẽ không mất đi một giá Mẫu nào cả.

Thứ ba: Nếu thỉnh theo cách thứ hai thì Mẫu Thiên sẽ không được thỉnh, sau đó nếu hầu chúa Sơn Trang nữa thì có nghĩa là đã thỉnh Mẫu Nhạc Tiên những hai lần. Như vậy làm theo cách thứ hai kiểu gì cũng sẽ bị mất một giá mẫu.

Kết luận: Cách thỉnh chuẩn nhất là cách thứ nhất với việc bổ sung thêm hầu Chúa Sơn Trang:

Thỉnh Mẫu Thiên Tiên – Mẫu Địa Tiên -> Mẫu Thủy Tiên -> Hầu Chúa Sơn Trang (Mẫu Nhạc Tiên).

Như vậy sẽ đủ cả bốn vị Thánh Mẫu trong Tứ Phủ, vì nếu hầu Tứ Phủ mà không đủ 4 vị Thánh Mẫu thì sẽ không hợp lý.

Thu tu thinh gia mau

Các nguyên tắc Hầu Đồng Trong Tín Ngưỡng Tứ Phủ

Nguyên tắc hầu ba giá mẫu

Trong ba giả Mẫu tuyệt đối không được mở khăn. Tại sao lại không được phép mở khăn ba giá Mẫu? Để trả lời câu hỏi này chúng ta đi từ nguyên lý căn bản như sau:

-Các vị thánh về đồng để làm gì? Đó là để làm việc.

Không việc này thì việc kia, mỗi một vị thánh về đều có công việc cụ thể của mình, ví dụ như các vị Chúa Chầu về chứng tòa Sơn Trang, các Quan Lớn về chứng sứ, ông hoàng Bẩy về chấm lính, v.v…

-Tam Tòa Thánh Mẫu ở vị trí nào trong điện thần Tứ Phủ. Ở vị trí giống như một vị Vua vậy, và là vị thánh đứng đầu điện thần Tứ Phủ.

-Tam Tòa Thánh Mẫu có cần phải giảng đồng để làm việc không?

Do đã là Vua rồi thì Mẫu không cần phải về một cửa điện nào đó để làm việc cả, mà Mẫu chỉ giáng về một thời gian ngắn ngủi để khai mở cho buổi hầu đồng thôi. Còn lại sẽ là việc của bá quan văn võ của đình thần Tam Tứ Phủ.

  • Nếu tung khăn hầu Mẫu thì sao?

Nếu ai đó tung khăn hầu Mẫu là đi ngược lại với nguyên tắc trên, tức là phá luật lệ từ ngày xưa để lại. Vô hình dung người đó đã:

  • Gián tiếp hạ thấp vị thế của Mẫu
  • Đã để lộ ra rằng người đó hầu đồng nhưng thực ra các vị thánh không hề giáng vào người đó (thế cho nên người đó mới hầu Mẫu Liễu Hạnh theo ý thích của cá nhân mình).

Không mặc áo Mẫu, nếu mặc thì phải có áo bản mệnh ở trong. Giá Mẫu đệ nhất, đệ nhị lễ hương sống; giá Mẫu đệ tam lễ hương chín.

Nguyen tac hau ba gia mau

Nguyên tắc hầu nhà Trần

Khi hầu Đức Ông Đệ Tam mới lên đại thượng. Cô Đại Hoàng ngự áo vàng. Nhà Trần không ngồi ghế, trừ khi bắt tà để tra xét tà ma. Hành động ngồi ghế là bất kính với 3 giá Mẫu.

Nguyên tắc hầu giá các quan

Khi các quan về phải đi mạng chéo, thắt khăn chữ phúc hoặc lên nét. Quan đệ nhất thuộc dòng đi tu nên khi ngự đồng, khai quang làm lễ, không ngự vui hiến tửu.

Quan đệ tứ dòng khâm sai cũng vậy. Khi có quan thầy hầu chứng 2 giá quan trên rồi thì đệ tử không được hầu nữa. Khi khai quang bắt buộc phải dùng khăn tấu hương. Giá các quan Ông hoàng, Cậu phải lễ 4 lần, mỗi lễ lễ 3 vái ở giữa, 2 vái 2 bên, 1 vái tất cả. Các giá trên lễ phải dùng khăn tấu hương và hương. Mỗi lần lễ là biểu hiện dâng hương về mỗi phủ một lần. Khi tiến lùi để lễ thì lùi 2 tiến 3. Mặt ngẩng lên nhìn cộng đồng nhưng khi quỷ lễ phải cúi mặt nhắm mắt. Bốn lần lễ không được bỏ hương; nếu chỉ lễ một lần phủ đệ nhất, ba phủ còn lại dùng khăn tẩu hương thì khác nào có bát mà không có gạo, có cốc mà không có nước, đó là hành động bất kính. Trừ những vị đồng cựu không đứng lên được thì phải tiến hương lên cộng đồng, sau đó dùng tay chống gối đứng lên – “ốm tha già thải”, đó là được miễn giảm chứ không phải lệ như thế.

Cúng tế trong hầu bóng khác hành tế trong lễ hội. Cúng tế trong hầu bóng, lùi 2 bước tiến 3 bước dứt khoát, rõ ràng nhưng hơi nhanh biểu hiện sự làm việc tâu đối tiến cúng, là bóng quan về làm việc. Hành tế trong lễ hội biểu hiện sự đồng tiến và là quan viên chứ không phải bóng quan, vì vậy đi theo nhịp trống, có chủ tế, tiến hương tiến hoa riêng biệt. Đó là người trần cúng tiến lễ nghi.

Giá các quan gấp khăn tấu hương và châm hương để khai quang chứ không dùng khăn tay hay khăn mặt (khăn tay, khăn mặt chỉ để lau chùi mà không thể để thay thế khăn tấu hương). Quan tuần tiễn đàn phải rải gạo muối

Múa kiếm múa đao không được chỉ vào cộng đồng, không được cửa cổ mình.

Nguyen tac hau gia cac quan

Nguyên tắc hầu giá Chầu và các cô, các cậu

Các điệu múa giá Chầu giá Cô phải nhẹ nhàng phải nhẹ nhàng. Các Chầu phải lên khăn củ ấu, chữ nhân, nón buồm. Các Cô lên khăn hoa, khăn vành dây, nét. Cô Bơ có thể lên nét 3 màu.

Giá các Chầu các Cô về khai quang đứng quát hiển quạt hiến hương chứ không nghiêng ngả không múa. Giá chầu bà Đệ nhị và chầu Lục về chỉ rải lộc cho bản đền chủ không đi chợ. Giá chầu Năm chầu Bé rải lộc, đi chợ. Giá chầu Mười cưỡi ngựa đeo cờ kiếm, không đi giày. Đầu xuân giá chầu Đệ nhị về rải lộc rải hoa. Vào hè giá tiên cô về giải dịch (tiền và hoa quả). Các thứ đó không ăn được phải thả sông hoặc ngã ba đường. Thường thường về giải dịch là giá cô Đôi hoặc cô Sáu.

Bất kể khi hiến tửu, thuốc hay nước đều phải dùng khăn hoặc quạt che miệng. Không rải tiền xuống đất để chèo đò. Đó là rải tiền cho người chết chứ thánh không cần. Giá cô Bơ cài tiền đò bên hông và cài một nén hương sống bên tai. Hầu các giá đều không được quay đáy vào cộng đồng, không được xỉa xói vào cộng đồng.

hau gia Chau va cac co, cac cau

Nguyên tắc xin phép và chứng hương

Tất cả các hành động lễ ngự, làm việc, khăn áo đều phải xin phép và chứng hương. Chứng người, chứng ngựa, chứng voi, chứng tam đầu đều phải phủ khăn tấu hương lên đầu sau đó khai quang lễ 5 lễ, vỗ vào hông voi, ngựa 3 lần.

Các quan, Ông hoàng, Cậu ngồi xếp vòng tròn hoặc vắt chân chữ ngũ, đeo 2 mạng chéo, nét buộc chữ phúc hoặc khăn mỏ rìu. Các giả Chầu bà và Cô đều phải quỳ hành lễ, khai quang bằng quạt và hương chín. Một số giá như giá cô Cả, cô Bơ về hiến hương không múa cờ thần cơ hội (cờ thần thì để treo, cơ hội chỉ có diễn viên hề trên sân khẩu mới múa chứ trong hầu bóng chỉ đi ngọn cờ hồng bằng khăn phủ diện).

Đầu xuân thì không đi cờ kiếm, đi ngọn cờ hồng, chỉ dùng cờ lệnh kiểm lệnh khi khai đền lập phủ. Đầu xuân cũng kiêng mặc đồ trắng kể cả giá bản đền là thoải đều phải mặc áo đỏ khăn đỏ thể hiện ngày vui đầu năm phù hợp với phong tục truyền thống Việt Nam. Hiện nay do sự không hiểu biết và bảo thủ, các vị đồng bóng cứ khăng khăng cho mình là đúng nên đã đảo lộn hết trật tự khuôn phép.

Chỉ có 5 vị quan lớn trên cộng đồng nên không có thêm vị quan nào khác. Các vị quan khác nếu có chính là quan bản đền bản cảnh.

Canh hoa trang

Một số nguyên tắc cơ bản khác

Hầu đồng giá thứ nhất phải tung khăn, tẩy khẩu, phải đội bát nhang trước mới được mở phủ, nếu ốm phải cúng tam phủ thục mệnh trước mới mở phủ. Nơi đội bát nhang là chốn tổ, nơi thờ đó là quan trọng nhất. Nơi mở phủ là mượn cảnh để mở, là thứ hai. Các cụ gọi là “một chốn đôi nơi”. Muốn mở phủ phải có thầy khai đàn mở phủ. Mở phủ phải dùng kiếm để mở. Nếu không có căn kiêm tri thì quan Đệ nhị và Đệ tam về mở phủ, gọi là mở chéo. Còn căn kiêm trì đôi nước thì cả bốn quan đều dùng kiếm. quan Đệ nhất và Đệ tứ không múa kiểm mà chỉ làm lễ kiếm lệnh để khai phủ thôi. Phủ tượng trưng cho giếng nước của từng phủ “trồng cây, đắp nấm, đào giếng, gieo mầm”. Vì vậy phải dùng kiểm để khai phủ chứ không dùng gáo, làm sao đào giếng bằng gáo được. Người ta gọi là khai phủ chứ không phải gọi theo ngôn từ bịa đặt là động phủ, chọc phủ (không hiểu họ động cái gì, chọc cái gì??).

Hầu đồng phải có sở hầu, nếu “một chốn đôi nơi” thì phải có sở bay về các nơi mở phủ, đội bát nhang, nhưng trước đó phải có lễ đến trình báo, sau khi hầu xong 3 ngày mới được lễ tạ. Nếu ở xa thì lễ tạ ngay nhưng khi về chốn tổ vẫn phải lễ tạ bái vọng.

Trước khi hầu đồng phải xin phép thánh, chủ nhang, đạo trưởng, cung văn, pháp sư và bách gia trăm họ. hầu xong phải vái tạ Phật thành và có lời cảm ơn bách gia.

Khi định hầu thánh phải đến xin phép thầy, mua lễ lễ thánh xin ngày. Khi mời quan thầy, chủ nhang, đồng đền, pháp sư đều phải có lễ đến lễ thánh sau đó mới mời thày, mời đồng. Lộc đưa các vị đó và những vị đồng cựu (24 năm đổ ra mới được gọi là đồng cựu nếu không có điện thờ) phải được đưa bằng đĩa.

Hầu đồng không nên trùm khăn buồm quá dài. Đó là khăn phủ tượng chứ không phải khăn hầu. Giá các ông Hoàng đi hèo đi thơ. Giá ông Chín không đeo kích cầm batoong trông như thày bói mù dở mà ông là người nho sĩ tu Phật. Không bao giờ người ta đi dép, đi guốc mộc trên sập hầu cả.

Hầu đồng phải nghiêm trang thành kinh nhất tâm, vui vẻ hoan hỉ, không xúi bẩy nhau làm những điều không hiểu biết. không nói xấu, lừa đảo nhau, không dựa vào đồng bóng làm những điều bất nhân bất nghĩa, không nên so bì ghen tị, hồ nghi, đồi hỏi, tranh giành nhau về lộc.

Mot so nguyen tac co ban khac

Trình tự các giá hầu đồng xưa và nay

Trình tự các giá hầu đồng theo lối cổ

Trước đây nghi thức hầu đồng thuộc Tín Ngưỡng Đức Thánh Trần và Tín Ngưỡng Tứ Phủ là tách rời nhau chứ không chung với nhau như bây giờ. Cụ thể buổi lễ hầu về Nhà Trần sẽ được tổ chức trước và tách rời với buổi lễ hầu về Tứ Phủ sẽ được thực hiện sau đó. Khi đó các buổi hầu đồng bao gồm:

Buổi hầu đồng về Nhà Trần

1: Đức Ông Trần Triều Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương
2: Đệ Nhất Vương Tử Hưng Vũ Vương
3: Đệ Nhị Vương Tử Hưng Hiến Vương
4: Đệ Tam Vương Tử Hưng Nhượng Vương
5: Đệ Tử Vương Tử Hưng Trị Vương
6: Đệ Nhất Vương Cô Quyên Thanh Công Chúa
7: Đệ Nhị Vương Cô Đại Hoàng Công Chúa
8: Vương Tể Phò Mã Phạm Ngũ Lão
9: Ông Tả Yết Kiêu
10: Ông Hữu Dã Tượng
11: Ngũ hổ

Chú ý: trước đây không hề có giả Cô Bé Cửa Suốt và Cậu Bé Cửa Đông trong Tín Ngưỡng Đức Thánh Trần.

Buổi hầu đồng về Tứ Phủ

Thỉnh Thánh Mẫu

1: Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên Thanh Vân Công Chúa
2: Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên Liễu Hạnh Công Chúa
3: Mẫu Đệ Tam Thoải Cung Xích Lân Long Nữ
4: Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên Sơn Lâm Công Chúa (một số nơi tung khăn hầu mẫu)

Tứ Phủ Vương Quan

1: Vương Quan Đệ Nhất Thượng Thiên
2: Vương Quan Đệ Nhị Giám Sát
3: Vương Quan Đệ Tam Thoải Phủ
4: Vương Quan Đệ Tử Khâm Sai
5: Vương Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Lục Phủ Vương Quan

1: Tôn Quan Điều Thất
2: Tôn Quang Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm
3: Tôn Quan Triệu Tường

Tứ Phủ Chầu Bà

1: Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
2: Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn
3: Chầu Đệ Tam Thoải Cung
4: Chầu Đệ Tứ Khâm sai
5: Chầu Năm Suối Lân
6: Chầu Lục Cung Nương
7: Chầu Bảy Kim Giao
8: Chầu Tám Bát Nàn Đông Nhung
9: Chầu Cửu Tinh Sòng Sơn
10: Chầu Mười Đồng Mô
11: Chầu Bé Bắc Lệ
Chầu Bé Thoải Cung
12: Chầu Bà Bản Điện (Thủ Điện Công Chúa)

Tứ Phủ Ông Hoàng

1: Ông Hoàng Cả Quận Vân
2: Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn
3: Ông Hoàng Bơ Thoải Cung
4: Ông Hoàng Tư Khâm Sai
5: Ông Hoàng Năm
6: Ông Hoàng Lục
7: Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
8: Ông Hoàng Bắc Quốc
Ông Hoàng Bát Nùng
9: Ông Hoàng Chín Cờn Môn
Ông Hoàng Chín Thượng
10: Ông Hoàng Mười Nghệ An

Tứ Phủ Thánh Cô

1: Cô Cả Thượng Thiên
2: Cô Đôi Thượng Ngàn
3: Cô Bơ Bông
4: Cô Tư Y La
5: Cô Năm Suối Lân
6: Cô Sáu Lục Cung
7: Cô Bảy Kim Giao
8: Cô Tám Đồi Chè
9: Cô Chín Giếng Sòng Sơn
Cô Chín Thượng Ngàn
10: Cô Mười Mỏ Ba
11: Cô Bé thuộc Tứ Phủ

bao gồm:

  • Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
  • Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
  • Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
  • Cô Bé Thoải Cung

12: Cô Bản Đền Bản Cảnh

bao gồm:

  • Cô Đôi Cam Đường
  • Cô Bé Tân An (Lào Cai)
  • Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
  • Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê)
  • Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
  • Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
  • Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang)
  • Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
  • Cô Bé Sóc (Miền Nam)
  • Cô Bé Núi Dùm
  • Cô Bé Mỏ Than
  • Cô Bé Thác Bờ

Tứ Phủ Thánh Cậu

1: Cậu Hoàng Cả Phủ Giầy
Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn
2: Cậu Hoàng Đôi
3: Cậu Hoàng Bơ
4: Cậu Hoàng Bé Quận Đồi Ngang
5: Cậu Bé Bản Đền

Quan Hạ Ban

1: Hoàng Hổ Thần Tướng
2: Thanh Hổ Thần Tướng
3: Xích Hổ thần Tướng
4: Bạch Hổ Thần Tướng
5: Hắc Hổ Thần Tướng
6: Thanh Xà Đại Tướng
7: Bạch Xà Đại Tướng

Trình tự các giá hầu đồng ngày nay

Ngày nay có sự giao thoa giữa các giá hầu về Trần Triều với Tứ Phủ và các vị Nữ Thần địa phương, do vậy nghi thức hầu đồng được thực hiện vào chung một buổi với thứ tự như sau:

Thỉnh Tam Tòa Quốc Mẫu

1: Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên Thanh Vân Công Chúa
2: Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên Liễu Hạnh Công Chúa
3: Mẫu Đệ Tam Thoải Cung Xích Lân Long Nữ

Hội đồng Nhà Trần

1: Đức Ông Trần Triều Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương
2: Vương Mẫu Trần Triều
3: Đệ Nhất Vương Tử Hưng Vũ Vương
4: Đệ Nhị Vương Tử Hưng Hiến Vương
5: Đệ Tam Vương Tử Hưng Nhượng Vương
6: Đệ Tử Vương Tử Hưng Tri Vương
7: Đệ Nhất Vương Cô Quyên Thanh Công Chúa
8: Vương Tể Phò Mã Phạm Ngũ Lão
9: Ông Tả Yết Kiêu
10: Ông Hữu Dã Tượng
12: Cô Bé Cửa Suốt
13: Cậu Bé Cửa Đông
14: Ngũ hổ

Chú ý: Trong hình thức hầu đồng mới này xuất hiện thêm giá Cô Bé Cửa Suốt và Cậu Bé Cửa Đông trong nghi thức hầu về Nhà Trần mà trước đây không hề có hai giá này.

Mẫu Nhạc Tiên Sơn Lâm

Mẫu Nhạc Tiên Sơn Lâm Công Chúa – Lê Mại Đại Vương

Hệ thống Nữ thần phối thờ cùng Tứ Phủ

1: Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
2: Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
3: Chúa Đệ Tam Lâm Thao
4: Chúa Thác Bờ
5: Chúa Long Giao
6: Chúa Cà Phê
7: Chúa Năm Phương
8: Chúa Mọi
9: Chúa Ba Nàng

Tử Phủ Vương Quan

1: Vương Quan Đệ Nhất Thượng Thiên
2: Vương Quan Đệ Nhị Giám Sát
3: Vương Quan Đệ Tam Thoải Phủ
4: Vương Quan Đệ Tứ Khâm Sai
5: Vương Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Lục Phủ Vương Quan

1: Tôn Quan Điều Thất
2: Tôn Quang Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm
3: Tôn Quan Triệu Tường

Tứ Phủ Chầu Bà

1: Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
2: Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn
3: Chầu Đệ Tam Thoải Cung
4: Chầu Đệ Tứ Khâm sai
5: Chầu Năm Suối Lân
6: Chầu Lục Cung Nương
7: Chầu Bảy Kim Giao
8: Chầu Tâm Bát Nàn Đông Nhung
9: Chầu Cửu Tỉnh Sòng Sơn
10: Chầu Mười Đồng Mỏ
11: Chầu Bé Bắc Lệ
Chầu Bé Thoải Cung
12: Chầu Bà Bản Điện (Thủ Điện Công Chúa)

Tứ Phủ Ông Hoàng

1: Ông Hoàng Cả Quận Vân
2: Ông Hoàng Đôi Thượng Ngàn
3: Ông Hoàng Bơ Thoải Cung
4: Ông Hoàng Tứ Khâm Sai
5: Ông Hoàng Năm
6: Ông Hoàng Lục Thanh Hà
Ông Hoàng Lục An Biên
7: Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
8: Ông Hoàng Bắc Quốc
Ông Hoàng Bát Nàng
9: Ông Hoàng Chín Cờn Môn
Ông Hoàng Chín Thượng
10: Ông Hoàng Mười Nghệ An

Tứ Phủ Thánh Cô

1: Cô Đệ Nhất Thượng Thiên
Cô Cả Vân Đình
Cô Cả Núi Dùm
2: Cô Đôi Thượng Ngàn
3: Cô Ba Bông
Cô Bơ Tây Hồ
4: Cô Tư Y La
5: Cô Năm Suối Lân
6: Cô Sáu Lục Cung
7: Cô Bảy Kim Giao
8: Cô Tám Đồi Chè
9: Cô Chín Giếng Sòng Sơn
Cô Chín Thượng Ngàn
10: Cô Mười Mỏ Ba
11: Cô Bé thuộc Tứ Phủ, bao gồm:

  • Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
  • Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
  • Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
  • Cô Bé Thoải Cung
    12: Cô Bản Đền Bản Cảnh bao gồm:
  • Cô Đôi Cam Đường
  • Cô Bé Tân An (Lào Cai)
  • Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
  • Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê)
  • Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
  • Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
  • Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang)
  • Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
  • Cô Bé Sóc (Miền Nam)
  • Cô Bé Núi Dùm
  • Cô Bé Mỏ Than
  • Cô Bé Thác Bờ

Tứ Phủ Thánh Cậu

1: Cậu Hoàng Cả Phủ Giầy
Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn
2: Cậu Hoàng Đôi
3: Cậu Hoàng Bơ
4: Cậu Hoàng Bé Quận Đồi Ngang
5: Cậu Bé Bản Đền

Quan Hạ Ban

1: Hoàng Hổ Thần Tướng
2: Thanh Hổ Thần Tướng
3: Xích Hổ thần Tướng
4: Bạch Hổ Thần Tướng
5: Hắc Hổ Thần Tướng
6: Thanh Xà Đại Tướng
7: Bạch Xà Đại Tướng

Canh hoa trang

Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Nghi Thức Hầu Đồng Trong Tín Ngưỡng Tứ Phủ.

Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:

  • Báo An Ninh Thủ Đô
  • Báo Petrotimes
  • Diễn đàn hoangbo.vn
  • Ảnh: FB Mật Ong (https://www.facebook.com/ong.mat.98096)
  • Và các các nguồn tài liệu khác

Xin trân trọng cám ơn!

Hoa sen

Tham khảo thêm