Chầu Tám : Tìm hiểu những thông tin về Chầu Tám Bát Nàn

Chầu Tám Bát Nàn là vị Thánh Chầu thứ 8 cai quản Nhạc Phủ và Địa Phủ trong hàng Thập Nhị Vị Chầu Bà của Tín Ngưỡng Thờ Tam – Tứ Phủ.

Nổi danh muôn thủa đấng hồng quần
Nữ tài hộ quốc cứu lê dân
Tận trung phò tá ngôi trung nữ
Phá ách gông cùm lũ xâm lăng

Sơ lược về Chầu Tám Bát Nàn

Nguồn gốc: Ngọc Hoa Công Chúa, con gái Hùng Vương

Danh hiệu: Chầu Tám Tiên La

Phủ/ nơi cai quản: Nhạc Phủ hoặc Địa Phủ

Sắc phong:

  • Bát Nàn Đại Tướng Quân, Trinh Thục Công Chúa (Trưng Vương)
  • Ý Đức Đoan Trang Trinh Thục Công Chúa (Lê Thánh Tông)
  • Dục Bảo Trung Hưng Linh Phù Chí Thần (Nguyễn Thánh Tổ)
  • Dục bảo Trung Hưng Linh Phù Thượng Đẳng Thần (Nguyễn Hoằng Tông)

Trang phục/Màu sắc: Vàng

Đền thờ:

  • Đền Tiên La, Thái Bình
  • Đền Tân La, Hưng Yên

Ngày tiệc: 17/03 Âm Lịch

Sự tích Chầu Tám Bát Nàn

Chầu Bát – Vị nữ tướng lừng danh thời đại Hai Bà Trưng

Trong thế giới tâm linh huyền bí của tín ngưỡng thờ Mẫu, Chầu Bát hiện lên với vẻ đẹp uy nghi, lẫm liệt. Là vị Thánh Chầu thứ 8 trong hàng Chầu Bà, Ngài còn được biết đến với nhiều danh xưng khác như: Đại tướng Bát Nàn, Bát Nàn Đông Nhung Đại tướng quân, Tiên Chúa Bát Nàn… Có ý kiến cho rằng, danh xưng “Bát Nàn” thực chất là đọc chệch từ “Bát Nạn”, ngụ ý Ngài đã cứu giúp nhân dân thoát khỏi tám đại nạn.

Vậy, đằng sau những huyền tích linh thiêng ấy là câu chuyện về một con người như thế nào?

Giai thoại về người con gái của núi sông

Chầu Bát giáng sinh vào thời đất nước ta còn chìm trong ách đô hộ của nhà Đông Hán. Tên thật của bà là Vũ Thị Thục Nương, con gái của thầy thuốc Vũ Công Chất, người cai quản trang Phượng Lâu, Bạch Hạc (nay thuộc Vĩnh Phúc).

Phượng Lâu nằm bên bờ sông Lô thơ mộng, thuộc vùng đất cố đô Văn Lang xưa. Nơi đây, núi rừng trùng điệp, đầm hồ, suối khe chằng chịt. Những ngôi nhà đơn sơ được dựng trên đồi cao, xung quanh là đá xếp thành bực. Trước mỗi ngôi nhà, đều có những ống bương cao vút để hứng nước mưa. Dân làng sống bằng nghề nông, đánh bắt cá và săn bắn. Vũ Công Chất là một người đức độ, thường xuyên lên rừng hái thuốc chữa bệnh cho dân làng. Trong một lần đi hái thuốc ở Mãn Châu, ông đã tình cờ gặp ngôi miếu thờ Sơn Tinh công chúa, húy Ngọc Hoa – vợ của Sơn Thánh Tản Viên – trong tình trạng đổ nát, hoang tàn. Cảm động trước cảnh tượng này, ông đã đứng ra kêu gọi dân làng cùng trùng tu lại ngôi miếu.

Mùa đông năm ấy, khi Vũ Công Chất trở về, vợ ông là Hoàng Thị Mầu vui mừng khôn xiết. Nghe chồng kể chuyện về việc sửa sang miếu thờ, bà vô cùng hoan hỷ. Bất ngờ thay, trong lúc hai vợ chồng đang trò chuyện, bỗng có tiếng người con gái vang lên: “Mẹ ơi, cho con vào với!”. Một thiếu nữ xinh đẹp, khoác trên mình bộ áo cánh sen, nhào vào lòng bà Thị Mầu rồi biến mất tăm. Ít lâu sau, Hoàng Thị Mầu sinh hạ một người con gái, đặt tên là Thục Nương.

Thục Nương lớn lên sở hữu vẻ đẹp tuyệt trần, làn da trắng mịn màng, đôi môi thắm đỏ, dáng người thướt tha như cây liễu. Nàng không chỉ xinh đẹp mà còn thông minh lanh lợi, tài trí hơn người. Năm 16 tuổi, nàng đã nổi tiếng khắp vùng, được mọi người ca tụng là “nữ tiên hạ thế”. Nàng thích du ngoạn trên sông Lô, cùng bạn bè ca hát, ngâm thơ, thi tài. Mỗi nhịp chèo khua nước, nàng lại cất lên một câu hò, tiếng hát vang vọng khắp dòng sông, hòa cùng tiếng cười nói rộn ràng của bạn bè. Dù tài năng hơn người, nhưng Thục Nương luôn khiêm tốn, lễ phép, được mọi người yêu quý.

Từ người con gái hiếu nghĩa đến vị nữ tướng kiên cường

Vẻ đẹp và tài năng của Thục Nương đã vang xa đến tai Phạm Danh Hương, con trai một hào trưởng quyền quý ở Nam Chân. Phạm Lang, ngoài hai mươi tuổi, dung mạo tuấn tú, văn võ song toàn, lại thêm đức độ, nhân hậu, khiến Thục Nương cảm mến. Hai người nên duyên vợ chồng sau buổi hát đúm, trao duyên.

Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi chưa được bao lâu thì tai họa ập đến. Một lão hào mục họ Trần, giàu có nhưng tàn ác, đã cậy quyền cậy thế đến hỏi cưới Thục Nương. Bị từ chối, hắn bèn tìm cách hãm hại gia đình nàng. Hắn cấu kết với Tô Định, vẽ ra những lời lẽ ngon ngọt để dụ dỗ Thái thú, khiến hắn nảy sinh lòng tham, muốn chiếm đoạt Thục Nương.

Tô Định truyền Vũ Công Chất đến phủ, hòng dùng thủ đoạn mua chuộc để ép ông gả con gái cho mình. Trước sự cương quyết của người cha, Tô Định nổi giận, ra tay sát hại ông. Không chỉ vậy, hắn còn giết chết cả Phạm Lang và cha chàng. Nghe tin dữ, Thục Nương đau đớn khôn nguôi. Nàng quyết tâm trả thù cho cha và chồng, đồng thời cứu mẹ và người thân thoát khỏi sự truy bắt của quân giặc.

Thục Nương lẻ loi một mình trôi dạt trên sông, cuối cùng đến ẩn náu tại một ngôi miếu cổ ở làng Tiên La. Dân làng biết chuyện, cảm phục trước tấm lòng hiếu nghĩa và khí phách của nàng, nên đã hết lòng che chở, giúp đỡ.

Tại Tiên La, chứng kiến cảnh dân làng chịu nhiều áp bức, bóc lột dưới ách thống trị của nhà Hán, lòng yêu nước trong Thục Nương càng sôi sục. Nàng quyết định dựng cờ khởi nghĩa, kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc.

Hợp sức cùng Hai Bà Trưng, ghi danh sử sách

Thục Nương cho phép dân tản cư đến Tiên La sinh sống, chia ruộng đất cho họ canh tác, đồng thời khai hoang những vùng đất bãi bồi ven sông. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Thục Nương, làng Tiên La ngày càng trở nên phồn thịnh. Tiếng lành vang xa, thu hút nhiều người từ khắp nơi đổ về tham gia nghĩa quân.

Mùa thu năm ấy, nghĩa binh lên đến hàng ngàn người, Thục Nương phất cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bát Nạn đại tướng quân. Quân Hán nhiều lần kéo đến đàn áp, nhưng đều bị nghĩa quân của bà đánh bại.

Cùng lúc đó, ở Mê Linh, Hai Bà Trưng cũng dấy binh khởi nghĩa. Nghe tin về vị nữ tướng tài ba ở Tiên La, Trưng Trắc đã sai sứ giả đến chiêu dụ Thục Nương.

Ban đầu, Thục Nương còn phân vân, nhưng sau khi nghe lời khuyên của một cụ già trong làng: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, nàng đã hiểu rằng muốn đánh đuổi giặc Hán, cần phải hợp sức lại cùng nhau.

Ngay lập tức, Thục Nương quyết định gia nhập nghĩa quân Hai Bà Trưng, được phong làm Đại tướng quân, trưởng lĩnh tiền đạo. Nàng cùng các nữ binh Tiên La lập nhiều chiến công hiển hách, góp phần vào thắng lợi oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

Những chiến công lẫy lừng và cái kết bi tráng

Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Thục Nương đã chứng tỏ tài năng quân sự xuất chúng của mình. Nàng cùng các nữ binh Tiên La đã liên tiếp lập nhiều chiến công, khiến quân giặc khiếp sợ.

Không chỉ dũng cảm, mưu trí trên chiến trường, Thục Nương còn là một nữ tướng có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Nàng luôn quan tâm, chăm sóc cho binh lính, giúp đỡ nhân dân những vùng đất mà nghĩa quân đi qua. Chính vì vậy, nàng được binh sĩ và người dân yêu mến, kính trọng.

Sau khi dẹp tan quân Đông Hán, giành lại độc lập cho đất nước, Hai Bà Trưng lên ngôi vua. Thục Nương được phong làm Bát Nạn Đại tướng quân, Trinh Thục Công chúa, tiếp tục cống hiến cho triều đình.

Tuy nhiên, hạnh phúc và thái bình chưa được bao lâu thì giặc Hán lại sang xâm lược. Trước thế giặc mạnh như chẻ tre, nghĩa quân Hai Bà Trưng lần lượt thất bại. Thục Nương cùng các nữ tướng khác đã chiến đấu anh dũng đến cùng, nhưng trước sức mạnh quá lớn của kẻ thù, cuối cùng bà phải tuẫn tiết trên bờ sông Cẩm Khê.

Dù cuộc đời kết thúc trong bi tráng, nhưng hình ảnh vị nữ tướng kiên cường, bất khuất và tấm lòng yêu nước sâu sắc của Chầu Bát đã in sâu vào tâm trí người dân Việt Nam. Nàng được nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi trên đất nước, trở thành biểu tượng của tinh thần đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Vào đời hậu Lê, vua Lê Thánh Tông mang quân đi đánh Chiêm Thành có ngưng lại ở Tiên La. Sau khi hỏi han sự tình, ngài bao phong Thục Nương làm “Vạn Cổ Phúc Thần”, để tưởng nhớ đến công ơn của người nữ anh hùng một đời hi sinh cho đất nước.

Câu chuyện về Chầu Bát không chỉ là một huyền thoại đẹp, mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nó nhắc nhở chúng ta luôn phải ghi nhớ công ơn của cha ông, phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.

Những lần sắc phong của Chầu Bát

Theo thần tích thời hậu Lê (Hàn Lâm Đông Các, Đại Học sĩ Nguyễn Bính soạn) Thục Nương được phong thần theo thứ tự sau:

1. Thời Trưng Vương, sắc phong: Bát Nạn Đại Tướng Quân, Trinh Thục công chúa

2. Thời vua Lê Thánh Tông, sắc phong: Ý Đức Đoan Trang Trinh Thục công chúa

3. Thời Minh Mạng nhà Nguyễn, sắc phong: Dục Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần.

4. Thời Khải Định nhà Nguyễn, sắc phong: Dục Bảo Trung Hưng Linh Phù Thượng Đẳng Thần.

Hầu giá Chầu Bát

Chầu Bát cũng thường hay ngự về đồng (nhất là trong những dịp tiệc vui hoặc về đền chầu). Khi ngự đồng bà thường mặc áo màu vàng (trước đây thì thường lại là màu xanh), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) màu vàng, có dải von hoặc ví lét thắt dải buộc, sau lưng đắt kiếm và cờ lệnh, tay múa kiếm và cờ lệnh ngũ sắc.

Đền Tiên La (đền vọng) hay còn gọi là Đền Tám Gian tại đường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng cũng là nơi di hài chầu trôi về. Tại đây bà còn được tôn xưng với tên Chúa Bát Nàn, thường được hầu sau hàng Tam Vị Chúa Mường, về làm lễ tấu hương và khai quang như quan lớn chứ không hầu vào hàng Tử Phủ Chầu Bà như thông thường.

Bản văn Chầu Tám Bát Nàn

Theo các tư liệu được tìm thấy, Tín Ngưỡng Việt đã sưu tầm được 5 bản văn Chầu Tám Bát Nàn .

Trích đoạn

Vào buổi sáng mùa xuân năm ấy
Năm Nhâm Dần 17 tháng 3
Nghĩa quân đứng chặt quanh bà
Đang nghe lời hịch chầu bà truyền ra khắp vùng

Quân Tô Địch nó ầm ầm kéo tới
Phát gươm đao phơi phới cờ bay
Bốn bề khép chặt vòng vây
Lòng sâu kế hiểm nó ra tay hại người…

Xem chi đầy đủ các bản văn Chầu Bát

Đền thờ Chầu Tám Bát Nàn

Đền Tiên La (Thái Bình)

Đền Tiên La tọa lạc tại thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trên một diện tích khoảng 4000 m. Mặt trước đền hướng ra phía con sông Tiên Hưng.

Tại đây là nơi nhân dân chịu ơn chầu cũng là nơi di thể chầu trôi về, nên ở đây chầu còn được tôn xưng hẳn là Mẫu Tiên La, nên cũng có khi gọi là Chầu Bát Tiên La. Tại đây vẫn còn lưu truyền câu chuyện: khi Chầu Bát đã thác ở trên ngàn, chầu còn hóa phép đốn cây rừng, đóng thành bè gỗ theo dòng trôi về bến sông gần đền Tiên La rồi bà báo mộng cho người thủ đền cùng dân quanh vùng ra đón bè về để tu sửa đền.

Đền Tân La (Hưng Yên)

Đền Tân La toạ lạc trên khu đất rộng với những tán cây cổ thụ xum xuê thuộc địa phận thôn Đoàn Thượng – xã Bảo Khê – thị xã Hưng Yên. Nơi đây, cây cối rậm rạp, hầu hết có niên đại hàng trăm năm tuổi, giống như một khu rừng nhỏ nằm giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đền thờ Bát Nàn tướng quân Vũ Thị Thục, một vị tướng xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống lại quân Đông Hán xâm lược nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc.

Một số đền khác

Đền Tiên La (đền vọng) hay còn gọi là Đền Tám Gian tại đường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng (cũng là nơi di hài chầu trôi về, tại đây bà còn được tôn xưng với tên Chúa Bát Nàn, thường được hầu sau hàng Tam Vị Chúa Mường, về làm lễ tấu hương và khai quang như quan lớn chứ không hầu vào hàng Tứ Phủ Chầu Bà như thông thường).

Ngoài ra còn có là Đền Đồng Mỏ, thuộc thị trấn Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn (tương truyền là nơi chầu hóa) và còn rất nhiều đền khác trong tỉnh Thái Bình và nơi quê nhà của bà ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Chầu Tám Bát Nàn

Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:

  • Sách Tín Ngưỡng Tam Tứ Phủ và Thờ Thánh ở Việt Nam – Biên soạn TS Bùi Hùng Thắng
  • Wikia Đạo Mẫu Việt Nam

Xin trân trọng cám ơn!

Tham khảo thêm

Xem thêm thần tích Thập Nhị Vị Chầu Bà

Giới thiệu về Tác Giả

Nguyễn Hưng hiện đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Mang trong mình lòng đam mê tìm hiểu văn hóa truyền thống, anh dành sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Với anh, tín ngưỡng không chỉ là nét đẹp văn hóa mà còn là sợi dây kết nối thế hệ, lưu giữ những giá trị tinh thần quý báu của dân tộc. Trên hành trình khám phá, Nguyễn Hưng luôn nỗ lực nghiên cứu, chắt lọc và chia sẻ những kiến thức bổ ích về tín ngưỡng Việt Nam đến với độc giả.