Đền Đống Nước (Ba Đình, Hà Nội)
Đền Đống Nước được cho là có từ thời đại Trần, nhưng được đại tu lại vào thời kỳ Nguyễn. Trong đền, có đền thờ Ngọc Nương công chúa và ba tòa Thánh Mẫu. Nằm tại địa chỉ ngõ 173, ngách 63 Hoàng Hoa Thám, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội.
Mục Lục Bài Viết
Lịch sử Đền Đống Nước
Nghe đồn người Pháp đã xây dựng một nhà máy sản xuất bia trên đường Hoàng Hoa Thám do nguồn nước tại đây rất tốt, và sau đó đã tạo ra thương hiệu nổi tiếng Bia Hà Nội. Theo truyền thuyết, xưa kia làng Ngọc Hà có những cột nước tự phun lên từ lòng đất, vì vậy người dân đã xây dựng một đền thờ và gọi nó là đền Đống Nước. Theo quan niệm phong thuỷ, đất này nằm trên vòi con rồng nên mỗi khi trời mưa, nước lại phun ra.
Trong bản ngọc phả ghi rằng ở nơi này có một cô gái tên Bạch Ngọc Nương, người sinh ra đã có những điều bất thường. Vào ngày 17 tháng Tám, trời tối đen, mưa to và sông dâng cao. Từ đó, đất này có nước tự phun, và dân chúng đã cảm thấy sự linh thiêng và xây dựng miếu thờ. Trong thời gian vua Trần Nhân Tông (1279-1293) dẫn quân đi đánh giặc Nguyên, ông đã nghỉ tại đền và có giấc mơ thấy một cô gái tự xưng là con của Long Vương yêu cầu được theo ông để giúp đánh giặc trong bóng tối. Khi Trần Nhân Tông trở về, ông đã cho dân tại trại Đống Nước tu sửa miếu thờ và đặt danh hiệu thần là “Nữ Bạch Ngọc Hồ, thuỷ thần lân tinh công chúa”.
Ngôi đền nằm gần khu vực “Thập Tam Trại” đã được thành lập từ thời Lý, vẫn còn lại nhiều di tích đến ngày nay. Phía đông có đình Hữu Tiệp, chùa Bát Mẫu và đình Ngọc Hà. Phía nam có chùa Bát Tháp (Vạn Bảo). Phía tây có đình Đại Yên, chùa Vĩnh Khánh và đình Liễu Giai. Phía bắc có chùa Bà Đanh, chùa Châu Lâm, đền Voi Phục (Thụy Khuê) ở ven sông Tô Lịch và Hồ Tây, và nhiều địa điểm khác.
Kiến trúc Đền Đống Nước
Theo dấu vết kiến trúc cổ, đền Đống Nước đã được đại trùng tu vào thời kỳ Nguyễn. Năm 1954 và gần đây, đền đã được cộng đồng đóng góp tiền để tiến hành công tác tu sửa. Xung quanh đền có nhiều cây thụ cổ, mặt đền hướng về phía nam, nhìn ra một hồ nước hình vuông rộng 6 sào, mặc dù hiện tại không còn tồn tại do quá trình đô thị hóa. Tam quan bao gồm 2 trụ biểu lớn, cửa chính và 2 cửa phụ được xây dựng theo kiểu 2 tầng mái giả chồng diêm.
Sau cổng đền là một sân gạch nhỏ. Phía bên trái là dãy nhà khách gồm 5 gian. Phía bên phải là điện thờ Ngọc Nương công chúa, có hai nếp nhà gồm 3 gian xếp song song theo hình “chữ Nhị”, được xây dựng theo kiểu vì kèo trốn cột với 2 lớp mái. Liền kề với phía bên trái và bên phải còn có lầu Cô và lầu Cậu. Đền Mẫu nằm ở cuối sân, tiền đường gồm 3 gian và 2 chái, được xây dựng song song với trung đường theo hình “chữ Nhị”, và trung đường nối với hậu cung hình chuôi vồ.
Trong toà trung đường, phía bên phải có tượng Đức Ông, phía bên trái có tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn đặt trong khám, và giữa có bàn thờ ông Hoàng Bảy và ông Hoàng Mười. Tại hậu cung, có sập thờ và bệ thờ, trên đó đặt một khám lớn để thờ Tam toà Thánh Mẫu. Những đồ trang trí bên trong đền Mẫu và hậu cung, như cửa võng, hoành phi, câu đối, bộ bát bửu… được chạm trổ tinh vi và sơn son thếp vàng.
Ngoài ra, trong đền lại có những sập thờ kiểu chân quỳ dạ cá, hương án gỗ cong với những hình chạm nổi tứ quý… có giá trị mỹ thuật. Ngôi đền hiện bảo lưu được nhiều câu đối ca ngợi cảnh đẹp linh thiêng và công lao của Ngọc Nương, chẳng hạn:
Đắc địa lâu đài, như nhật chi hằng, như nguyệt chi thăng, như sơn chi thọ
Kình thiên trạch trụ, nhược mộc hữu căn, nhược thương hữu thực, nhược thuỷ hữu nguyên
Dịch nghĩa:
Lầu đặt đúng đất, như trời bền vững, như trăng mọc lên, như núi trường thọ
Nhà xây đội trời, như cây có gốc, như kho có của, như sông có nguồn.
Hiện trong đền còn giữ được cuốn ngọc phả soạn năm 1572, hai sắc phong và một khoán ước. Hàng năm vào dịp Ngọc Nương công chúa sinh và hoá, nhân dân ở đây tổ chức lễ hội. Đám rước đi từ Đống Nước sang làng Liễu Giai, làm sớ dâng tên đầy đủ những suất đinh trong làng, lại làm cỗ để tế lễ, rồi sau đó mời dân làng thụ lộc.
Các đền khác tại Quận Ba Đình