Tổng hợp các bản văn Mẫu đệ Nhị Địa Tiên ( Mẫu Liễu Hạnh ) hay nhất được Tín Ngưỡng Việt sưu tầm để gửi đến các bạn.
Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Liễu Hạnh Công Chúa (Thánh Mẫu Liễu Hạnh) còn có các danh hiệu khác như Vân Hương Thánh Mẫu, Chế Thắng hoà Diệu Đại Vương, Mã Hoàng Bồ Tát…
Thánh Mẫu ngoài danh hiệu Đệ Nhị Địa Tiên còn được tôn xưng là Thiên Tiên Thánh Mẫu. Ngài vốn là Đệ Nhị Quỳnh Hoa Công Chúa trên thiên cung, ba lần giáng sinh trần thể với Sự tích Tam thế của Thánh Mẫu được ghi chép trong sách “Cát Thiên Tam Thể Thực Lục” tại Quảng Cung Phủ Nấp (nơi Thánh Mẫu giáng sinh lần thứ nhất).
Xem chi tiết và đẩy đủ hơn về Thần Tích Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên
Dưới đây là 10 bản chầu Văn về Mẫu Liễu Hạnh hay nhất được sưu tầm để gửi đến các bạn:
Khi nhàn tựa án thảnh thơi,
Ngẫm xem tam thế luân hồi lạ thay.
Quả tu khéo tại lòng này,
Hoá sinh sinh hoá xưa nay ai tường.
Vẹn sao hai chữ cương thường,
Tiên nhân phật quả lưu phương dõi truyền.
Nhớ xưa ở huyện Đại Yên,
Xã là Trần Xá về miền Nghĩa Hưng.
Đương năm Cảnh Thịnh sơ hưng,
Cải làng Vỉ Nhuế phỏng chừng tam niên.
Thôn Quảng Nạp hiệu Huyền Viên,
Phạm gia tích đức bách niên đã nhiều.
Xưa làm Phó sứ thiên triều,
Khâm sai tra sổ phải điều bất công.
Bút son vâng mệnh đền rồng,
Giáng Trần Xá xã thôn trung đất lành.
Đất này tú khí chung linh,
Lâu đài cổ tích xung quanh cũng kỳ.
Chỉn e tử tức còn trì (chầy),
Trai đàn mong được sau khi nối đời.
Đêm ngày khấn phật cầu trời,
Kim tinh Thái Bạch tới nơi tâu rằng.
Có nhà rày ở dưới trăng,
Thái bà Phạm lão tin nhằm có thai.
Ngọc Hoàng mở sổ ra coi,
Phạm ông ngày trước vốn người thiên cung.
Bởi vì giữ phép không công,
Vậy nên giáng trích vào vòng nhân gian.
Một đời rồi lại tái hoàn,
Nay xin cầu tự thời bàn làm sao.
Có quan Bắc Đẩu Nam Tào,
Sổ cầm chu mặc ghi vào tính danh.
Tâu rằng xin chút gái lành,
Kẻo cơ nghiệp ấy sau dành cho ai.
Đức vua nghe nói êm tai,
Truyền đòi công chúa thứ hai lên chầu.
Khuyên con giáng thế ít lâu,
Hỡi quan văn vũ cùng nhau hiệp bàn.
Tâu rằng đội đức thiên nhan,
Non cao bể rộng khôn toan cưỡng lời.
Công chúa tâu lạy mấy lời,
Hóa sinh sinh hóa kiếp người kiếp tiên.
Kiếp này là kiếp tiền duyên,
Ghi lòng để dạ chép biên đời đời.
Thần thông biến hoá mọi nơi,
Trước Nga Hoàng giáng vốn người tiên cung.
Ngọc nữ thăng lệnh chỉ truyền,
Vâng lời tấu đến điện tiền vua cha.
Khấu đầu lạy trước thềm hoa,
Lạy bà Hoàng hậu chính toà vừa thôi.
Gửi truyền văn vũ mấy lời,
Thờ vua phải giữ lòng thời chỉ trung.
Còn tiên lạy trước ngai rồng,
Tâu rằng cho xuống độ vòng bao nhiêu.
Thấy con nói hết mọi điều,
Bút son đề chữ linh tiêu lên đầu.
Thông minh linh ứng dài lâu,
Tứ phương lai cộng phật đầu Dần niên.
Sênh ca đàn sáo đôi bên,
Dập dìu phượng liễn xuống miền dương gian.
Phạm ông khi ấy thanh nhàn,
Màng màng giấc mộng đoàn đoàn tiên nga.
Khí thiêng sực nức mùi hoa,
Sao mai thấp thoáng trời đà vầng đông.
Thái bà chuyển động tâm trong,
Quế lan ngào ngạt hát sen hồng nở hoa.
Huệ hương dâng khắp đầy nhà,
Giáng sinh mồng sáu tháng ba giờ Dần.
Nhãn quang lóng lánh tinh thần,
Mày ngang vành nguyệt da ngần vóc sương.
Má đào môi hạnh phi phương,
Giá so tố nữ tiên nương khôn bì.
Phú ông xem thấy dị kỳ,
Giáng thần ứng hiện đặt thì Tiên Nga.
Yêu như ngọc dấu như ngà,
Nâng châu rốn bể hứng hoa lưng trời.
Màn the trướng gấm thảnh thơi,
Thâm khuê dưỡng dục khác vời tiên cung.
Ngũ chu thiên tính đà thông,
Thử xem nề nếp cũng dòng phú gia.
Chạnh lòng nghĩ đến gần xa,
Nay tuy đã vậy sau đà sao đây.
Năm lên mười tuổi khôn thay,
Một niềm hiếu thuận nết hay ai tày.
Thung huyên sớm mỏng tối dày,
Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra.
Tôn thân thượng mục hạ hoà,
Lời ăn tiếng nói nhu hoà khoan dung.
Đủ điều ngôn hạnh công dung,
So xem cốt cách khác trong trần này.
Đua chen kẻ tớ người thầy,
Ra vào hầu hạ đêm ngày tựa nương.
Tới tuần tam ngũ phi phương,
Bạn Tần khách Tấn ngổn ngang đầy nhà.
Thái ông ướm hỏi dò la,
Chiêu thân sớm định để già tâm khoan.
Nào ai dưới gối thừa hoan,
Nay con riêng phải lo toan việc nhà.
Chúa rằng đội đức sinh ra,
Ơn đà bể rộng nghĩa đà non cao.
Hổ con chút phận thơ đào,
Hình lâm tử tức tiêm vào phu quân.
Cuộc đời như thể phù vân,
Thân tiên buộc lấy duyên trần làm chi.
Nhớ khi nuôi nấng phù trì,
Nghĩ sao báo đáp ơn nghì cho phu.
Con xin dốc chí đường tu,
Triêu sớm ban tối di du vui cùng.
Mặc ai mối điệp tin ong,
Mặc ai lá thắm chỉ hồng bạn duyên.
Khi xưa phẩm cách người tiên,
Lẽ nào nỡ để hồng liên bùn lầm.
Thái ông nghe nói mừng thầm,
Hay là đức phật Quan âm thân tiền.
Thôi chi nói sự trần duyên,
Dù con trong sạch giá tiên mặc lòng.
Đào viên then khoá kín phong,
Giữ điều trinh tiết kính cung tiên đường.
Vá may canh cửi việc thường,
Rộng ơn thí xả bốn phương dân cùng.
Nền nhân xây đắp dốc lòng,
Khói hương thấu đến cửu trùng cho thông.
Dần dần nhị kỉ ngũ đông,
Thung đường phút đà xe rồng lên chơi.
Ngán thay dưới đất trên trời,
Một người mà gánh hai vai thâm tình.
Báo ơn tứ đức sinh thành,
Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài.
Cư tang năm mới được hai,
Huyên đường hạc giá bay khơi lên ngàn.
Thân tiên bao quản tân toan,
Một mình khôn biết rằng bàn sao xong.
Bèn mời lân lý hương trung,
Kẻ thăm người viếng tây đông đầy nhà.
Thôn trung có kẻ lão già,
Thấy người thơ ấu nết na thương vì.
Năm thường dậy sớm luân di,
Hiếu trung hai chữ sau thì ắt nên.
Công chúa quì xuống thưa lên,
Trình rằng ơn nặng dám quên sau này.
Thôn trung thu xếp ra tay,
Hạ tuỳ thượng xướng việc nay chu toàn.
Đưa người yên xuống hoàng tuyền,
Mặc nàng coi sóc báo đền công xưa.
Chăm coi bao quản nắng mưa,
Gọi là chút báo tóc tơ sinh thành.
Thương thay thiên đạo bất bình,
Trăm năm để giận một mình khấu công.
Ba năm lòng những dặn lòng,
Nào ai khuya sớm đà cùng việc đây.
Đến tuần tứ cửu làm trai,
Đại đàn bố thí bẩy ngày bẩy đêm.
Lòng thành thấu đến cửu thiên,
Kim tinh Thái Bạch tâu lên ngai vàng.
Tâu rằng ở dưới dương gian,
Nơi bà công chúa Đại An tâu rày.
Cù lao chín chữ thương thay,
Trông ơn thượng đế xá rày siêu sinh.
Ngọc hoàng việc ấy đã minh,
Đem bộ trắc giáng đế đình mà tra.
Phán rằng đệ nhị Tiên Nga,
Bấy lâu sao vắng đại la quảng hàn.
Triều đình tâu trước thiên nhan,
Tâu còn kỉ nữ tái hoàn tiên cung.
Ngày nay tang tóc đã xong,
Một mình coi sóc ngoài trong xa gần.
Năm qua tháng lại lần lần,
Phong quang đã khác tiền nhân đó rồi.
Công chúa tỉnh giấc bồi hồi,
Tam tinh mộng thấy tới nơi doành doành.
Tâu rằng người ở động đình,
Vâng đem ngọc bảo kim tinh lai phù./.
Làng Vân Hương giáng sinh thần nữ
Cõi Nam Thiên bất tử nổi tên
Vốn xưa Đệ Nhị Cung tiên
Phong lưu Công Chúa ở trên Thiên Đình
Đương việc thọ khi mang chén ngọc
Quá lònh mừng bỗng chốc rời tay
Phép trời đâu có riêng tây
Hai mươi năm đó xuống đày trần gian
Năm Thiên Hựu Lê Hoàng thứ nhất
Dấu Giáng Tiên Trần thất thác ra
Rõ ràng vóc ngọc vẻ hoa
Hoa mà biết nói ngọc mà biết thơm
Tính linh tuệ cộng thêm cho học
Gồm cầm thi ca khúc đều hay
Hiếu trinh có một người đây
Lầu cao trăm thước giá này ai ngang
Thôn giáp Nhị vốn làng kế đó
Đuốc văn phòng bóng tỏ tình lang
Ba năm chăn gối vội vàng
Hạn kỳ đã hết Thiên Đàng đã lên
Lòng sắc son minh bạch gửi tâu
Ngọc Hoàng soi xét trước sau
Trần gian lại xuống hoa lâu lại về
Công sinh dưỡng tình quể day dứt
Điệu sắt cầm duyên kết càng sâu
Đôi bên thung tạ huyên sầu
Đào hoa mặt vắng vân du lòng đành
Khi Lãng Uyển, Bồng Doanh xa tới
Khi góc biển klhi lên trời
Khi người lão ấu, khi người mỹ nhân
Khi dưới nguyệt cầu thần lẩy điệu
Khi trăng hoa cuộc rượu mở hàng
Khi bài lá khi cung đàn
Khi ngay giữa quán, khi ngang bên đường
Khi tỉnh Lạng gặp chàng Phùng sứ
Khi Tây Hồ văn tự cùng ai
Đông Kinh trở gót tiến hài
Đã ngay ngoài phố đã mai trong thành
Khi hoa Hạc Hoàng Đình tới đó
Khi Đông dương ngựa gió ghé qua
Khi Nghệ Tĩnh khi Thanh Hoa
Khi vào Hoàng Lĩnh khi ra Thạch Thành
Khi phố cát hiển linh đã rõ
Khi Sòng sơn mới tỏ cơ duyên
Lắm khi hoạ phúc uy quyền
Phép vua dẫu hiển phép Tiên càng thần
Khi tuyết lĩnh đã chân qui Phật
Nọ tự mình lại thực qui sư
Rộng đường hết sức tu tri
Cứu dân giúp nước hằng ghi một niềm
Nhà vua thủa dẹp giặc khi trước
Cùng gắng công giúp nước dân ta
Đại vương có sắc ban ra
Chữ rằng Chế Thắng Bảo Hoà diệu phong
Triều ta lúc hỗn đông nam bắc
Hiển anh linh ra sức âm phù
Gia Long thứ bốn hiệu Vua (1805)
Tiên Hương tên xã dụ cho về làng
Trên chín bệ đã ban quốc điển
Dưới vạn gia đều hiển thần quyền
Dám xin trắc giáng ở trên
Quốc dân tý hộ, trào lên xuân đài.
Bóng gương loan mẫu đơn một đoá,
Gió lay mành hương xạ thoảng đưa .
Có chầu Nguyệt điện Tiên xưa
Lánh miền cõi tục phận ưa nam thành
Kiếp giáng sinh vào nhà Lê thị
Cải họ Trần dấu khí Thiên hương
Vốn sinh có vẻ phi phương ,
Giá danh đòi một hoa Vương khôn bì
Ngụ thai quê Phủ Dày , Thiên bản
Phủ Nghĩa hưng là quán Sơn nam
Trẻ thơ chưa biết duyên phàm
Đeo kinh còn vết để làm dấu thiêng
Tuổi tới niên cài trâm , giắt lược ,
Kết duyên lành quê phước một nơi
Gối chăn vừa mới quen hơi
Ai ngờ dưới Nguyệt sảy nơi tơ hồng
Đạo vợ chồng còn đang thương nhớ ,
Bỗng hoa hài lại giở gót Tiên ,
Giờ Dần mồng Ba tháng Thìn ,
Đôi mươi mốt tuổi rẽ duyên Trần phàm
Ấy ai làm chăn thương gối thảm ,
Kiếp hay nguyền lãnh đạm về đâu ?
Lương quân dạ rối đòi nao ,
Xuân huyên nào biết thảm sầu mấy cơn
Rầy Thánh đã cung Tiên Nguyệt quế ,
Dễ xui lòng Trần thế xót xa ,
Có phen Tiên lại nhớ nhà ,
Bỗng thời Tiên ở đường xa ngự về
Thăm bản quê hương huyên đất nước ,
Cửa nhà chồng sau trước mọi nơi
Thăm rồi Tiên lại ra chơi ,
Đồi Ngang – Phố Cát là nơi duyên lành
Ca tính tình , tiếng tơ , tiếng trúc
Thương một người bạc Phúc dân ngây ,
Cho nên Tiên mới thử tay
Dễ đâu mà lánh , khôn thay mà phòng
Sự mơ mòng thực hư nhường giới
Lòng Trần gian mê muội biết đâu
Tuy rằng hồn phách nhiệm màu ,
Khuôn thiêng tích để đã lâu đến rày
Cũng nhiều ngày cưỡi mây nương gió ”
Vào Nghệ an sẵn có nhân duyên
Nước non khéo kết nên nguyền
Chốn thanh cảnh lịch kết duyên cũng vừa
Ấy duyên xưa hay là nợ mới
Hội phi thường Thánh mới sinh con
Tuổi vừa ba , bốn khôn ngoan ,
Hiềm đâu Thánh để lại con cho chồng
Chữ Sắc – Không xem thường mới biết ,
Lấy của gì là kiếp là chăng ,
Tính thiêng không ngại gió trăng
Ai ngờ phút hợp , phút tan nữa hoài
Song vật nài làm chi cho khổ
Đứng duyên lành sẵn có nhiều nơi
Thăm rồi Tiên lại ra chơi ,
Cây cao bóng mát là nơi giữa đường
Giếng âm – dương xưa nay trong sạch ,
Khi nắng mưa trợ khách đường xa
Đồi Ngang – Phố cát vào ra
Đôi khi giáp cõi Thanh – Hoa đất lành
Chốn cảnh thanh Tiên thường ngự đấy ,
Khách vãng lai tự ấy mới hay
Cho nên Tiên mới ra tay ,
Một ngày khôn vái hai ngày khôn van
Khách thác oan phải nhiều phi mệnh
Bèn sai ra đội mệnh nhà Vương
Ngữ tình kíp giận khôn lường
Sai binh mã tới Đồi Ngang tiễu trừ
Súng phá luôn vang như sấm động ,
Dấu thiêng nào dám chống Quốc uy ,
Thánh bèn ngự thiện lánh đi
Than rằng má phấn đâu bì trượng phu
Sao không xét Âm – Dương nhị lý
Lại ra điều lấy ý nạt nhau
Lệnh Trời ai dám chi đâu ,
Còn ai ở Thế biết nhau sau này
Chốn am mây từ ngày nguy biến
Ai còn kẻ dâng tiến đèn hương
Nền xưa hiu quạnh tuyết sương
Trăng hoa giãi tỏ trăng vàng còn chen
Các bạn Tiên về tâu Thượng Đế
Có Tiên chầu Thánh mẫu ngự chơi
Đồi Ngang – Phố Cát nghỉ ngơi ,
Lầm con mắt tục ra người bạo hung
Đã phá tan nơi ăn chốn ở ,
Lại còn điều càn rỡ nhuốc nha ,
Ngọc Hoàng ngự chỉ phán ra ,
Đào , Lan , Quế , Huệ bách hoa mọi nàng ,
Xuống Đồi Ngang thăm chầu Tiên Thánh
Xem Tiên chầu đức chính ra sao ?
Phán rằng phẩm trật Thiên Tào ,
Mà sao Trần thế hỗn hào tam phân
Trách Thôn dân những người ở đấy ,
Sao con Trời dám lấy làm khinh
Sơn xuyên đòi lại bách linh
Gia uy sẽ thử anh linh bõ bèn
Chớ sát hại nhân gian chi quá ,
Trời là Cha – Thiên hạ là con
Ví dầu đua mạnh tranh khôn
Thời nhân gian đó ai còn dám đương ?
Vua Ngọc Hoàng phán lời nhân thử ,
Các cung Tiên vâng cử ra đi
Tới nơi hỏa tốc tinh phi
Trước thời thăm Thánh , sau thời trách dân
Đã yêu phần càng thêm yêu nghiệt
Quở dân phàm sợ khiếp hơn xưa
Dân mong lập Điện nên thờ
Bách Quan đội lệnh sau xưa cho tường
Chốn Đồi Ngang thờ chầu Tiên Thánh
Tự hương tàn , khói lạnh nhường nay ,
Lấy làm khuất mắt khôn hay
Gia uy thời cũng nhiều người sợ kinh
Tâu Thánh minh ngự qua nhời ấy ,
Lập Đền thờ tự đấy mới yên
Người đâu quái dị nồng nàn ,
Xót thương dân tục lầm than phải tùy
Sắc tức thì tặng phong Chế thắng
Biển vàng treo ” Thượng Đẳng Tối Linh ”
Muôn dân từ đấy sợ kinh ,
Mới hay phép Thánh anh linh , nhiệm màu
Khắp đâu đâu nức danh từ đấy ,
Ai kẻ còn dám lấy làm khinh ,
Dù lòng hiển Thánh anh linh
Đến đâu thời đấy hãi kinh giờn giờn
Cũng có cơn hiền lành vui vẻ
Phấn điểm trang chải rẽ thanh tao
Dù khi thất ý nơi nao ,
Dường con sư tử bào hao dậy giàng
Thêm đôi bà chầu Quỳnh , chầu Quế
Ấy là trong nghĩa đệ thân huân ,
Hôm mai chầu chực áo khăn
Uy nhờ Tiên Thánh có phân nồng nàn
Rầy Mẫu đã về ngàn nhân đức
Quyền đôi bà xem xét trang nghiêm
Có khi nương gió thác rèm ,
Ai nương bóng Thánh càng thêm não nùng
Cũng có khi quyền chung tiệm nhớ
Cũng có khi qua nhớ lại thôi ,
Thương khi duyên chắp phận xui ,
Ban tài , ban Lộc , ban Ngôi , ban Quyền
Kẻ lỗi nguyên càng thêm bầm nhỡ
Có lòng tin khấn khứa truyền tha
Trọn bề bách nguyệt hồn hoa ,
Đã nên một cảnh yên hà có danh
Xưa Thánh chốn yên lành cùng ngự ,
Cũng từng quen Tiên nữ năm , ba
Rẩy chân xuống sợ Sa bà
Khuôn phù Ngọc ân , quản ba giới Thần
Gia uy linh cứu nhân , độ Thế
Trẻ cùng già ai nấy đội ơn
Ban Tài , ban Phúc , ban Nhân ,
Phù hộ đệ tử thiên xuân thọ trường
Xe phượng từ vâng sắc Ngọc Hoàng
Giáng sinh Lê Thị dấu thiên hương
Hây hây mặt ngọc phô nền trắng
Rờ rỡ môi soi ánh nhị vàng
Hiển hách đã vang trong phủ nghĩa
Anh linh nổi tiếng chốn Sòng Sơn
Từ vâng ngọc ấn gia phong tặng
Náo nức xa gần khắp bốn phương
Miễu cách:
Cảnh thư đường thanh phong ngoạn nguyệt
Thủa ba dương trong tiết thiều quang
Nhân khi nhàn hứng triều dương
Vậy bèn ngẫm ngợi sự nàng thần tiên
Trên thượng thiên vừa ngày mở yến
Vua Ngọc Hoàng chính điện Linh Tiêu
Lưỡng ban văn vũ thần liêu
Sân đan chấp chới tiêu thiều thung dung
Khúc nam cung thôi khoan lại giục
Nhạc lừng vang tiếp tuỵ uy nghi
Tiệc bày hoa hạc đan trì
Phương chương vẻ bích Lân phi thức hồng
Vị tiên cung thiên nga ngọc nữ
Chén thọ tường thứ thự quỳnh hương
Có chầu cách điệu dịu dàng
Quỳ dâng thượng đế chén vàng sẩy tay
Trước năm mây vua cha kíp giận
Nổi lôi đình một trận ai đang
Tinh phi hoả tốc vội vàng
Ngự truyền Bắc Đẩu phê nàng giáng sinh
Cảnh địa linh Nam Sơn , Phủ Nghĩa
Thổng cách:
Giữa huyện thiên An Thái xã danh
Họ Lê nổi dấu trâm anh
Cải về Trần Thị phúc lành thư hương
Nguỵêt tròn gương gió vàng hiu hắt
Quế đưa hương ngào ngạt gần xa
Mãn tuần bèn tỏ Hằng Nga
Đã đem đức trọng sinh ra trưởng thành
Tóc mây xanh mày ngài mặt ngọc
Tựa da ngà chân chuốt hài hoa
Hình dung cá lặn nhạn sa
Ví so quốc sắc ắt là không hai
Qua mười hai tới tuần tam ngũ
Kết duyên lành hợp ngụ bản hương
Này mừng phấn lược bén gương
Ai xui Nguyệt Lão tơ vương nên trời
Vừa lo đôi gối chăn đệm chiếu
Xây ra triều tây liễu đào đông
Chửa cam chút nghĩa tương phùng
Gian nan nỡ phụ sàng đông bao đành
Tuổi xuân xanh tới tuần tam thất
Để thung huyên phút ngắt trần duyên
Giờ Dần, mùng ba, tháng Thìn
Bình cách:
Xe loan sớm lánh cõi tiên ai tường
Ấy ai làm đêm thương ngày nhớ
Chẳng ngỡ là để nợ hay duyên
Lang quân luống những đeo phiền
Thung huyên nào biết mấy phen thảm sầu
Tưởng quặn đau ruột tằm vấn vít
Lệ ngọc tuôn thánh thót thánh tha
Than rằng nguyệt phách hồn hoa
Âm dương xa cách dễ hoà biết hay
Phượng lên mây ngựa về cửa ải
Mảng tử quy khắc khoải lòng tơ
Quải người hay tạo hoá cơ
Vì đâu nên nỗi sinh cơ nhường này
Rày thánh đã cung mây các nguyệt
Có hay lòng thảm thiết này chăng
U minh tuy đã khác hằng
Tính thiêng xong đã dùng dằng nhớ quê
Lại hiện về thăm thung huyên nhé
Dặn lang quân cặn kẽ trước sau
Thăm thôi lại bước xuống lầu
Thần thông biến hoá hay đâu là người
Phú chênh:
Trải đôi nơi nước non chơi dạo
Tìm đâu là cảnh hảo địa linh
Thanh Hoa sơn thuỷ hữu tình
Long chiền Hổ nhiễu đất lành tự nhiên
Mạch chỉ huyền hà hải chung tú
Được xứng tình hữu thú mừng thay
Trên thời quán tuyết cung mây
Trăm hoa đua nở sánh bầy phong quang
Chốn Đồi Ngang cùng nơi Phố Cát
Có một bầu gió mát trăng thanh
In đồ bát cảnh rành rành
Lầu Tần há sánh, thị thành khôn so
Trúc líu lo bách tùng đàn suối
Chinh đành hanh Phượng ruổi loan ca
Giữa đường chính sứ người qua
Biến lên chân tính hiện ra bán hàng
Trà ngũ nhang tưng bừng chén mảng
Rượu cửu tiên nem Phượng chả Lân
Phú dầu:
Đòi nơi la liệt bát chân
Phô chương quý vật kỳ tân mọi mùi
Thêm có đôi hồng nhan thể nữ
Việc trong ngoài giữ gìn trước sau
Nhân gian khôn biết cơ mầu
Nào ngờ người thế hay đâu là thần
Khách thời nhân ai ai nấy nấy
Thường đi về qua đấy nghỉ ngơi
Hình dung tốt tốt tươi tươi
Dễ xui chuyển thế nhiễu nhiều nhời hoa giăng
Chốn Cát đằng đã đành chờ gió
Trải chi nhời nói khó mà kiêng
Lạ thay hoa nở tháng giêng
Bướm qua cành ngọc, ong nghiêng nhị vàng
Khi buồn nương câu lan tựa ngọc
Ngụ tính tình đàn đọc say sưa
Ngợi ca vịnh phú ngâm thơ
Tập tành tiếng trúc tiếng tơ âm thầm
Thổi quyển trầm thánh tha thánh thót
Hát nói:
Gẩy đàn tranh bẻ bót bẻ bai
Nhạc âm nhường lọt bên tai
Dẫu lòng vàng đá dễ ai cầm đành
Sự yến oanh nhiễu nhời quấn quýt
Trải chi nhời hoa nguyệt ong bay
Bây giờ chúa mới ra tay
Kẻo mà sự thế còn hay dông dài
Xá chi ai kẻ đi người lại
Chẳng lánh phòng thời phải sa cơ
Say sưa ong bướm vật vờ
Bận chân vì nhện vương tơ dịu dàng
Sự phi thường mới hay tự đấy
Khắp gần xa đâu đấy uy linh
Có phen vào Nghệ An kinh
Gặp người Kẻ Sóc đông thành kết duyên
Chẳng bao quản lòng tiên cõi tục
Đọc cách:
Ngán xa tìm mai trúc phai đôi
Mới hay sự bởi cơ trời
Chẳng xe cũng mắc bởi nơi tơ hồng
Dốc một lòng nữ công nữ tắc
Việc tề gia cơ mực đảm đang
Trong ngoài cắt đặt sẵn sàng
Đạo lòng đã tỏ nhường gương lầu lầu
Trước chí sau thuỷ chung như nhất
Vẹn mười nguyền chẳng mặt mỗ phân
Hôm mai chuyên việc tảo tần
Tấc lòng thành kính mười phần thảo ngay
Một nhà vầy lan lan huệ huệ
Dòng giõi thêm đan quế hây hây
Mảng vui oanh yến sum vầy
Nào hay con tạo ra tay xoay vần
Dẫu nhắc cân thăng bằng chẳng xứng
Chớ thời đành đeo đẳng làm chi
Cùng nhau tự thủa vu quy
Chưa từng ai đã bấc chì đến ai
Nghĩ duyên sánh trời dài đất rộng
Kíp sao thắm bỗng chốc thờ ơ
Cờn luyện:
Ai làm cho ngó lìa tơ
Hiền đâu lại để con thơ ấu trùng
Phật cưỡi rồng trăm năm ước mãn
Bỗng vui chung để đoạn sầu tây
Tưởng rằng chẳng thẹn gió mây
Ai hay phút nhớ phút khuây chẳng ngờ
Tạo hoá cơ khi doanh khi trắc
Nào hay là thị sắc thị không
Ắt là kiếp trước chưa xong
Ấy nên mới phải luỵ vòng trần ai
Có phen lại về nơi cảnh cũ
Lối mận đào càng rũ càng say
Tưởng rằng tiếng vẵng tin chầy
Âm dương nhỡn nhục nào hay định nhầm
Hay còn chữ hoạ dâm phúc thiện
Đã ra tay ứng biến chẳng tha
Vãng lai dù trẻ dù già
Nhơn nhơn nhiều nỗi oan gia khôn phòng
Biến lạ lùng nhiều người oan thác
Ai ai đều nhớ nhác sợ kinh
Kiểu dương:
Tiếng đồn dậy khắp kinh thành
Rằng Đồi Ngang có chúa tinh hại người
Chiếu khải thôi ngự đình kíp giận
Nổi lôi đình một trận ai đang
Phép như phong hoả dậy giàng
Sai binh mã tới Đồi Ngang tiễu trừ
Súng kể dư trăm đều đủ giọng
Vang lừng nhường chuyển động thiên lôi
Miếu tứ phụng sự mấy nơi
Truyền đem lửa đốt một thôi đùng đùng
Tuy có phép thần thông cái thế
Song nhất hoàn nan chế Thái Sơn
Làm thinh thẳng bước giận hờn
Trách rằng sao nỡ một cơn nhường này
Ngỡ thế hay lòng vầy ấy nhẽ
Chẳng ngỡ là lấy thế lấy uy
Oan gia đành để lo chi
Đã làm kéo giận có khi xem nhờn
Đức hiếu sinh đội ơn thượng đế
Pháp uy nghi cứu tế sinh linh
Bể đào chưa tắt tăm kình
Đến khi vùng vẫy dễ kinh dờn dờn
Lại dấy cơn ra uy thảm khốc
Nhiễu phương dân than khóc ỏi tai
Trẻ già chẳng sót một ai
Càng ngày càng một ra oai báo thù
Sự đảo cờ làm sao cho thấu
Hãm cách:
Bèn mấy làm bản tấu ngự qua
Rằng đền thờ chúa tiên nga
Tự khi lãng thánh phôi pha đến rầy
Cá vạ lây cháy thành sóng vũng
Đâu đâu đều hoảng khủng kêu ca
Cửu trùng doãn ý lượng gia
Lập đền tự sử kẻo mà hại dân
Thượng đẳng thần sắc phong choi chói
Sai quan về cho tới Đồi Ngang
Mấy nơi cung điện sửa sang
Tàn vàng quạt phượng nghiêm trang đặt hàng
Lại phụng ban mọi đồ quốc tặng
Bảng vàng treo ” Chế thắng uy nghi “
Nghìn thu sử sách còn ghi
Thập phương xích tử đảo kỳ bình an
Tư tiết giới xuân thiên hoá nhật
Cõi Việt Nam tứ bất đẳng thần
Ngưỡng trông tiên chúa gia ân
Xuân Yên, Hà Vĩ, tứ dân tôn sùng
Tang miếu vũ ức niên hương hoả
Thuận mỹ từ muôn thủa tăng long
Thuận thiên tâm thuận lạc đông
Mỹ lưu phương mỹ vinh phong đời đời
Thuận mỹ hưởng xuân dài thọ vực
Chồi quế đào thơm nức chật sân
Đạo lưu chúng đẳng kim thần
Bạch tuyên tán vịnh hương vân một bài
Nguyện giáng phúc trừ tai hạn ách
Độ từ chung hưởng lộc kỳ di
Kim thần ca tụng ( biểu ) thường nghi
Duy nguyện giáng lâm thi cảnh phúc.
Cung Quảng Hàn phất phơ bóng thỏ
Người trấn gian ai tỏ sự tiên
Vốn xưa dấu khí hạo nhiên
Lúc vào Nguyệt điện lúc lên Thiên đài
Vâng lệnh sai giáng sinh trần thế
Lòng trần gian ai dễ biết hay
Họ Trần Thiên Bản phủ Giầy
Cù lao dưỡng dục đêm ngày nâng niu
Giá chắt chiu, lầu vàng gác ngọc
Địch nên tài quốc sắc thiên hương
Má đào môi hạnh phi phương
Giá so Tống Tử, Tề Khương ai bì
Thủa nghi gia, còn đương trau chuốt
Bỗng hoa hài lại trở gót tiên
Hay đầu nguyện chửa phi nguyền
Lang quân dạ rối,thung huyên dầu dầu
Cửa Tần Quỳnh từ nay chếch lệch
Cảnh trang đài để mạt tung tăng
Non đài mây đá vẫn lăng
Nơi non cao để gặp hằng thuyền quyên
Dưới cửu tuyền mênh mông bỡ ngỡ
Chẳng ngờ Bà còn ở tiên cung
Sớm khuya chầu chực bệ rồng
Ơn trên đã được sắc phong thẻ vàng
Bà Quỳnh Hoa chính ngôi công chúa
Vâng lệnh sai bái tạ trước sân
Có phen giá vũ đằng vân
Qua chơi quán Sở,lầu Tần tiêu dao
Đức hiểu sinh ban cho duệ hiệu
Sắc vàng phong: Hoà Diệu Đại Vương
Đèo Ngang phong cảnh lạ nhường
Say sưa nước trí dặm trường non nhân
Có phen chơi vườn xuân ngõ hạnh
Gặp bạn tiên đổng triết cầm ca
Có phen vui thú yên hà
Bẻ bai giọng tiếu, cầm ca trêu người
Khắp thiên thai về nơi kinh quốc
Trải non bồng nước nhược từng phen
Hôm mại nương gió thác rèm
Ai ưa bóng vía càng thêm não nùng
Cửa thánh đã thung dung rộng mở
Dưới đồng nhân hỷ xả từ bi
Độ cho muôn việc tề nghi
Trừ tà trị bệnh ra uy hiển thần
Bà dạy rằng hại nhân nhân hại
Thiên sinh nhân, nhân lại thành thiên
Tai nghe tiếng ngọc còn êm
Dám đầu cậy thế tranh quyền khi nay
Danh thơm bay khắp hoà thiên hạ
Nữ trung thần đáng giá vô song
Nay ơn Thượng Đế sắc phong
Lại theo Đức thánh nổi dòng đại vương
Chúng đệ tử đèn hương phụng sự
Dốc một lòng không dám đơn sai
Ơn bà ban lộc tiếp tài
Khuông phù đệ tử xuân lai thọ trường
Trong Nam Hải dị nhân liệt truyện
Bậc thần tiên dấu vết càng yêu
Xem trong lịch sử Chúa Tiên
Bất sinh bất diệt chép biên rành rành
Trong Nam thành Nghĩa Hưng Thiên Bản
Tổng Thiên Hương, Vân Cát thôn quê
Thái công người ấy họ Lê
Tu nhân tích đức chuyên về làm nhân
Thái công vẫn ân cần làm phúc
Tuổi bảy mươi sinh được một trai
Thái bà liền lại có thai
Bệnh không ăn uống ưa mùi hương hoa
Cả nhà sợ cho là ma quỷ
Mới lập đàn cúng lễ nguy nga
Bệnh đau ngày một thêm ra
Hết đường chạy chữa thuốc tha mà cầu
Năm tháng tám đêm thâu gió mát
Thấy một người đầu trắng phơ phơ
Tay cầm búa ngọc nhởn nhơ
Miệng đọc thần chú giáng qua bản đàn
Thái công bỗng hồn tan phách lạc
Ngẫm mơ màng một giấc chiêm bao
Thấy hai lực sĩ bước vào
Dẫn lên kim quyết ngôi cao nghìn trùng
Trên thượng giới hội đồng khánh thọ
Dưới sân rồng văn vũ quỳ tâu
Cung nga thế nữ đứng hầu
Mẫu dâng chén ngọc đứng hầu tận nơi
Tự nhiên sảy tay nơi mật phủ
Quan Nam Tào cầm sổ chép biên
Dẫn lên ra lối Nam Thiên
Trông lên thấy bảng đôi bên chữ đề
Thái công hỏi sự gì chẳng tỏ
Cớ làm sao thấy lạ lùng thay
Hai ông quỳ gối tâu bày
Liễu Hạnh Công Chúa bắt đầy trần gian
Ông chợt tỉnh giấc vàng mở mắt
Thấy thái bà liền nở cánh hoa
Hương thơm ngào ngạt gần xa
Mừng thẩm người ở cung nga mới về
Bụng bảo dạ con trời mượn cửa
Đặt tên lành công chúa
Giáng Tiên Phòng loan dưỡng dục sớm đêm
Cầm kỳ thi hoạ sách đèn ngâm nga
Đàn thập lục gảy hoà gió khúc
Thi bốn miền miệng đọc vang ca
Mây cung gió táp mưa sa
Thái công nghe thấy xót xa trong lòng
Mới ướm hỏi Trần công sau trước
Rằng đến đây được phước là bao
Sớm sinh một gái má đào
Xin làm dưỡng tử nương vào cửa công
Duyên sắp nhẽ thuận tòng nhân quả
Trần lão vốn ở Tiên Hương quan
Vốn dòng thế phiệt đường đường
Chồi non chưa có cậy nương tuổi già
Đêm trăng thanh vườn hoa dạo gót
Gốc cây đào bỗng thấy hài nhi
Ngẫm rằng thượng đế thương vì
Cửa nhà cô quạnh thời khi lửa hồng
Đôi tay bể vào lòng dưỡng dục
Đặt tên là danh ốc Đào Lang
Thiên tú diện mạo khác thường
Tài hoa có một văn chương ai tày
Khiến nguyệt lão xe dây tơ đỏ
Kết duyên cùng công chúa sánh đôi
Đuốc hoa soi tỏ chén mời
Khách tiên thời lại với người tiên nga
Cảnh vui thay ba nhà đoàn tụ
Lúc lửa gương vừa đủ ba đông
Duyên mong đâu ứng biển hùng
Trứng rồng lại nở la rồng lạ chi
Ngày mồng ba tháng ba ấy nhẽ
Có ai ngờ hợp để rồi xa
Đương cơn phách nguyệt hồn hoa
Hai mươi mốt tuổi phút đà về tiên
Chẳng ngỡ rằng là duyên hay nợ
Mói biết là Mẫu thiệt anh linh
Nhân duyên chưa tắt mối tình
Dường về đứng ở bên mình chưa hay
Thái bà cầm lấy tay chưa tỏ
Thực con mình vẫn ngỡ chiếm bao
Ba nhà đưa đến trước sau
Ung dung mới hỏi mấy câu sự tình
Nay con ở dương đình mẫu lệ
Phải về chầu Thượng Đế Thiên Cung
Ba nhà ở có âm công
Sau này mới được non bồng cảnh tiên
Gặp thấy được thoắt liền biến mất
Mới biết rằng Mẫu thiệt anh linh
Nhân duyên chưa dứt mối tình
Hiện về đứng ở bên mình lang quân
Lang quân lộ muôn phần mừng rỡ
Ăm hoàng nam than thở khúc nội
Thăm rồi Mẫu lại ra chơi
Biết đầu mặt bể chân trời mà mong
Mẫu từ đó linh thông biến hoá
Thường đi về mây gió luôn luôn
Thoắt đầu chơi cảnh Lạng Sơn
Cảnh thanh gió mát gảy đàn ngâm nga
Cũng có phen Mẫu ra thành thị
Cảnh Tây Hồ nhị thuỷ chèo chơi
Văn nhân tú cử ai người
Phú thơ ngâm hoạ đôi lời bấy lâu
Mẫu từ đó tới đầu hiển thánh
Vào Nghệ An dạo cảnh Thanh Hóa
Đồi Ngang Phố Cát vào ra
Vi nam vi nữ ai mà biết hay
Mới ra tay thử lòng trần thế
Đến khi cầu củng lễ mới an
Sứ thần làm sớ kêu van
Vua sai dân lập ngôi đến nguy nga
Phùng quân sứ về. qua tới đó
Thấy họ làm thần tượng như in
Đoán rằng Liễu Hạnh Chúa Tiên
Bèn sai dân lập ngôi đền trang nghiêm
Phong bốn chữ Mã Hoàng Bồ Tát
Lại càng thêm tối tú hơn xưa
Phép màu làm gió làm mưa
Đánh tan giặc giã giúp vua mây kỳ
Chữ Chế Thắng đề ghi tên hiệu
Sắc vua phong Hoà Diệu Đại Vương
Lâu đài điện các đường đường
Ngàn thu ghi đễ bốn phương dân cầu
Dẫn sự tích văn chầu một bản
Ngày mồng ba khánh đản Chúa Tiên
Thỉnh mời Mẫu giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường
Thánh chúa an bàn,đệ tử tôi đàn:
Phụng sự Thần Tiên Nữ
Tiền duyên sinh ở thượng giới
Tiên cung Vua Ngọc Hoàng, lỗ lộ ngai rồng
Quản tam giới, Linh Tiêu chính Ngự
Bát muôn tiên nữ, lá ngọc cành vàng
Quyền tóm thu thế giới vạn bang
Vận thần lực, linh thông biến hoá
Nhân ngày khánh hạ yến mở trường sinh
Bài ban ban khắp hết thiên đình
Sân đan quế tiêu thiều nhạc vũ
Văn thần võ sĩ ngọc nữ tiên phi
Cửa kỳ lân, phượng múa nghệ quỳ
Trên bảo điện, thiên nhan chỉ xích
Nguy nguy đãng đãng hách hách dương dương
Thoang thoảng đưa nhang xạ ngát hương
Hây hấy nức yến chi tô hợp
Nhặt khoan thánh thót, tơ trúc đội tuần
Đàn ngũ âm, gảy khúc nam xuân
Đinh đang điểm cung ba nhịp bảy
Tiêu thiều lừng lẫy lễ nhạc thung dung
Tiệc lưu ly báu ngọc lạ lùng
Chén hỗ phách quỳnh tương thứ tự
Có Tiên Thánh Nữ cách điệu dịu dàng
Trước ngọc lầu dâng chuốc chén vàng
Rót rượu lỡ sảy tay vô ý
Vua Cha Thánh Đế: Thiên nhỡn phi dao
Động uy nghi Thiên tử long bào
Lôi đình nổi bất phân thời khắc
Khi doanh khi trắc thiên tạo biến hình
Cải Thiên đình đày xuống Dương đình
Đủ ngày lại lên chầu Thượng Đế
Việt Nam tú khí Thiên Bản địa linh
Trấn Sơn Nam, An Thái xã danh
Thôn Vân Cát trâm anh lệnh tộc
Điềm trời giáng phúc, bãi cát được vàng
Mãn nguyệt liễền sực nức mùi lan
Đội ơn đức thụ thai Thánh Mẫu
Tốt tươi dung mĩ vóc ngọc da ngà
Phi công ơn cha mẹ sinh ra
Nâng niu thoắt mỗi ngày mỗi khác
Tóc mây hương thoảng da trắng lạ lung
Điểm yên chi,má đỏ hồng hồng
Đôi mắt phượng lóng la lóng lánh
Tại đeo vàng cánh chân dận hài hoa
Điệu lưng ong dáng ngọc thướt tha
Tươi vẻ ngọc miệng cười hoa nở
Đêm ngày dưỡng dục màn vóc phượng long
Tựa lan can, thác bức bình phong
Lược ngà chải, gương loan điểm đót
Khăn hồng chau chuốt phần ngọc điểm trang
Gầy đàn ca tang tính tình tang
Đàn dạo khúc hảo cầu quân tử
Lương duyên đổi chữ đã định thiên duyên
Chốn màn loan lá thắm đưa tin
Cánh phụng đã chắp cao bay bổng
Tin xuân vừa đến đào bỗng nở hoa
Bỗng xui lên Hồ Việt nhất gia
Tơ hồng đã dây xe sau trước
Duyên ưa cá nước, phận gái cưỡi rồng
Họp nhà hương, mở hội thung dung
Đào thi vịnh: nghi gia nghi thất
Khúc hoà cầm sắt, hội hợp tân nương
Chăn cù trau, đượm nức mùi hương
Tinh thần ngọc động phòng hoa chúc
Ngàn vàng một khắc bể ái nguồn ân
Ngầm duyên nay đã thắm mười phân
Trời già mặc không già duyên nhỉ
Tao khang chi nghĩa biên bạc non vàng
Đàn ngũ huyền dạo khúc dậy vang
Nhà vàng nổi cành vàng lá ngọc
Phòng loan xạ nức cửa tú xông hương
Trừng rồng nay lại nở ra rồng
Người quân tử theo dòng quân tử
Sum vầy một cửa hoè quế rườm rà
Còn mải vui yền phượng oanh ca
Hiệu thiên đã: Ngự trà nhớ đến
Lệnh truyền chỉ khiến: phản giá hồi cung
Các bạn tiên rong ruôi xe rồng
Đưa Chúa đến Linh Tiêu Nguyệt điện
Lại them cách biệt đôi ngả đôi nơi
Trách trăng già khéo quải duyên ai
Duyên kim cải xui lên biến cải
Nguyệt thu kia hỡi trăng sáng đương tròn
Hỏi gió mây rằng mất hay còn
Cho trăng khuyết đâu còn chi để
Bao nhiêu sự thể ngoảnh mặt làm thinh
Tuy rằng về chầu chực thiên đình
Lòng còn nhớ chốn quê Vân Cát
Ruột loan vẫn vít tơ trục bồi hồi
Ở một nơi lại nhớ một nơi
Xem chẳng khác Ngưu Lang, Chức Nữ
Thiên tào cách trở, yến Bắc nhạn Nam
Chẳng nhớ thời biển chút cho cam
Nghĩ ngôn cầm lòng tây sao được
Bèn vào tâu trước Thượng Đế thiên nhan
Rằng duyên con còn nợ dương gian
Cho mãn nguyện ba sinh sẽ hoá
Ngự tình đại xá thánh đức hiếu sinh
Bèn trở ra bái tạ thiên đình
Giáng sinh xuống huyện Thiên một khắc
Gió đưa hương nức thu nhạn đưa tin
Qua mấy nơi cảnh vật lạ nhìn
Kìa mai liễu hoà cười hớn hở
Nhện sa trước cửa hoè dãy hai bên
Thác trấn song con tiện bỏ then
Tay mở bức bình phong ren rén
Chúa vừa bước đến chốn cũ sảnh đường
Ăm con thơ chạnh nỗi nhớ thương
Thấy cảnh cũ lại càng cảm thống
Chạnh lòng dễ động than thở tiêu hao
Nỗi xót xa giọt lệ tuôn trào
Trông ra thấy lang quân vừa đến
Lòng mừng dễ khiến, nào nỗi ái ân
Nhất thời vạn hữu, nhất thời tân
Duyên nay đã thăm duyên hơn trước
Phi lòng cá nước toại chí rồng mây
Dẫu xe lên nghĩa ấy duyên này
Trăng đã khuyết lại tròn vành vạnh
Tiếng cơn say tinh ấp ngọc tựa vàng
Ấy duyên xưa nghĩa cũ còn mang
Chúa Tiên mới kể khoan sau trước
Kìa non nọ nước nông nỗi xa gần
Xin thưa rằng ăn ở có nhân
Trời chẳng phụ nhân duyên đôi chữ
Dù lên hương lửa nghĩa ấy phi thường
Cầm như ai chưa được tỏ tường
Cho lên khiến lòng vàng đeo thảm
Mẹ cha thương cảm Chúa lại thẩn thơ
Chịu nguồn cơn mưa gió vấn vợ
Đoạn thôi lại xa xôi đối ngả
Thần thông biển hóa nương gió cưỡi mây
Dạo bốn phương nam bắc đông tây
Tìm những trốn non bồng nước nhược
Kìa non nọ nước, sơn thủy hữu tình
Cảnh thành đô đầu chẳng xinh xinh
Nguồn hội ngộ phi lòng trăng gió
Đài kia gác nọ,quán Sở lầu Tần
Giải giang sơn,đâu chẳng thanh tân
Từng dạo khắp trời nam muôn ngả
Thanh Hóa đất lạ mạch án thủy huyền
Cõi Đồi Ngang đất tốt tự nhiên
Cảnh thiên tạo thực miền long huyệt
Địa linh nhân kiệt thiên lý lai long
Giếng âm dương leo lẻo nước trong
Thừa bóng mát trăng trong phơi phới
Bốn mùa hằng lại, tám bức bình phong
Thấy cảnh thanh Tiên Chúa vừa lòng
Hiện chân tính duyên ưa tình nặng
Áo xanh quần trắng tóc phượng lưng ong
Chinh chiện thay nhan sắc não nùng
Hợp tiên nữ dăm ba bạn cát
Phấn nhồi má hạc yếm thắm mày ngài
Áo mở ba phơn phớt lòng trai
Mùi thơm nức hương đưa trầm sạ
Chim truyền cá nhắn trăm sự đinh ninh
Gây đàn ca tang tính tang tình
Tiếng thánh thót giọng loan to nhỏ
Giữa đường chính xứ khách quý vãng lai
Quán âm dương dọn bán hàng chơi
Chốn thanh lịch cùng người thanh quý
Sơn hào hải vị nem phượng chả lân
Người thanh tấn cảnh lại thanh tân
Bày chinh chiện giường ngà chiếu ngọc
Màn sa cửa trúc con tiện đôi bên
Dù là gan vàng đá tự nhiên
Qua đây cũng vui niềm lạc thú
Tân kinh vương phủ quán Sở lầu Tần
Xem những người tài tử văn nhân
Ai lịch sự Chúa càng lịch sự
Vả sinh thánh tử rộng xá trần ai
Tiếc những người bạc phận duyên ôi
Lầm phải Chúa thấy đời từ đấy
Ai hoà vừa ý tổt phúc mới duyên
Thời ban cho bổng lộc Chúa Tiên
Càng thêm được vinh hoa phú quý
Thôi cơn hùng vĩ nghĩ lại từ bi
Rồi điểm trang chỉnh chiện dung nghi
Mầu gấm vóc sạ đưa hương nức
Lôi đình bộc bạch yếu điệu dịu dàng
Nào gió đẳng vương các tin trao
Sông ngân hán sẵn cầu ô nhịp
Kẻ Hồ người Việt hương lửa phải duyên
Đấng anh hùng sánh với thuyền quyền
Mở một cửa mai thanh trúc quý
Ấy mong tri kỷ gió lạnh sương rơi
Khen trăng già sao khéo trêu người
Tiên thượng giới bạn người hạ giới
Kết giao là ngãi hương lửa não nùng
Ấn ái kia nào đã phi lòng
Riêng chỉ để lòng người bối rối
Gió trăng đã trải quý tộc thiết tha
Bỗng hay đầu non nước la đà
Cánh chim nhạn cao xa bay bồng
Bỉ cách:
Sơn Nam Vân Cát giáng Tiên Hương
Ngọc nữ Quỳnh Hoa sắc hạ phàm Tích hiển
Tây Hồ thi hoạ khách Danh lam
Sòng Lĩnh chốn uy dương
Triệu hồi tử phủ loan dư hạc
Ảnh nguyệt quỳnh lâu khúc đoạn trường
Bất tử vang danh thiên hạ Mẫu
Cứu dân hộ quốc thọ vô cương
Miễu cách:
Nam Hải tích giáng tiên kì lục
Bắc sơn hà anh dục tú chung
Tây Hồ nguyệt lãng thanh phong
Dấu tiên Vân Cát vốn giòng
Lê gia Xã An Thái có nhà thể phiệt
Đã đời đời kiếp kiếp tu nhân
Từ đường hương hoả phụng thân
Còn hiểm cây ngọc trước sân muộn mà
Tâm hương thấu chín toà ngọc bệ
Sắc Quỳnh Hương đệ nhị đầu thai
Hoài nhân chín tháng lẻ mười
Thái công giấc quế hồn mai mơ màng
Cửa Kim Quyết rõ ràng trước mắt
Khúc nghệ thường rạo rực sinh ca
Cửu thiên tiên nữ bách hoa
Tập bài văn võ sắp ra đôi hàng
Trên chín bệ ngai vàng lô lộ
Chuốc chén quỳnh Thánh Chúa muôn xuân
Hồng y tiên tử ân cần
Gót tiên rón rén trước sân quỳnh đài
Bỗng sơ ý tay rơi chén ngọc
Nổi lôi đình tức tốc ai đương
Thống cách:
Lệnh truyền sắc giáng nam phương
Tiên nga ngọc nữ đưa đường như bay
Bóng quế rải hiện tây vằng vặc
Chốn phòng loan sực nức hương xông
Thái Công chợt tinh giấc nồng
Tin đầu Quỳnh Ngọc thâm cung nảy chối
Vườn xuân sắc tốt tươi vẻ thắm
Nguyệt lầu lầu nhạn ngân ngơ bay
Song tình nét liễu hây hây
Tuyết in vẻ ngọc đắm say hương trời
Giòng Lê thị nối đời hương hoả
Chữ vô nam dụng nữ xá chi
Cù lao dưỡng dục sớm khuya
Tính Lê Quỳnh Ngọc chữ đề giáng tiên
Nền thi lễ cần chuyên sớm tối
Đức hiểu trung sáng rọi trời
Đông Ngụ tình tuyết nguyệt hoa phong
Ngũ âm lục luật lâu thông mọi đường
Gặp vận nước cương thường điên đảo
Đấng anh hào há chịu khoanh tay
Xót đời bao nổi chua cay
Hổ mình phận gái khôn xoay cuộc cờ
Giòng Lê thị đương cơ bĩ cực
Mạc chuyên quyền áp bức lê dân
Trí cao đã sắp cơ trần
Đinh ninh một dạ vì dân diệt thù
Cho xã tắc sơn hà một mối
Chí anh hùng há ngại gian lao
Ai hay lá thắm cờ đào
Chữ tòng sớm rắp buộc vào gót tiên
Hỏi Nguyệt Lão rằng duyên hay nợ
Bình cách:
Sớm phũ phàng định chữ vu quy
Quyết dùng thoát hoá mưu kì
Lấy sinh giả tử quản chi thân này
Sẵn bút ngọc thảo ngay từ chúc
Phận liễu bồ lánh đục về trong
Trăm năm trọn vẹn chữ tòng
Một niềm hiếu kính quyết không đổi rời
Nợ trần tục vừa đôi mươi mốt
Tạ từ đường nhẹ bước ra đi
Non côi mượn cửa từ bi
Nguyện vì dân tộc xá chi hiểm nghèo
Cơn binh cách xảy điều tai biến
Cờn luyện:
Xin Thế Tôn xuất hiện giải nguy
Lấy câu ngũ giới tam quy
Tiếng chuông thức tỉnh quần lê sớm chiều
Cam thất hiếu chịu điều tân khổ
Cửu giống nòi trăm họ lầm than
Tưởng rằng hạc lánh mây ngàn
Thung huyện thảm thiết chứa chan lệ sầu
Tiên hạc giá bồng châu doanh hải
Gắng tìm người nghĩa khái trung can
Đông Thành, Kẻ Sóc, Nghệ An Thanh Hóa,
Phố Cát, Đổi Ngang, Núi Sòng
Giếng âm dương nước trong đôi mạch
Dựng lầu hồng núi bách
Thanh Hóa Đồi Dâu, Quán Cháo bao xa
Khi vào Ba Dội khi ra Bắc thành
Quán Liễu thanh bên bờ chín giếng
Khách anh hùng bàn chuyện quân cơ
Phú chênh:
Ngày vui chén rượu cuộc cờ
Ướm lời non nước để thơ tương phùng
Đêm thao luyện võ công kiếm kích
Sức phi thường tẩu bích như bay
Chiêu anh hùng quán dựng xây
Lệnh nghiêm thánh chúa ra tay kẻo nhờn
Cõi Sùng Lĩnh bao cơn sấm động
Lũ vương tôn cùng giống hại dân
Phũ phàng cõi tục lần khân
Đáng đời hết kiếp những quân bạo tàn
Chốn rừng thẳm danh vang từ đẩy
Khắp xa gần ai nấy nức danh
Mặc dầu làm chúa làm tinh
Khách trần hồ dễ mắt xanh lọt vào
Khắp bồng đảo tiêu dao mặc sức
Tìm ai người hữu đức hữu danh
Tiếng đồn xứ Lạng, Tam Thanh
Có nàng Tô Thị có thành biên quan
Phân ranh giới Nam phương
Bắc quốc Phùng sứ quân nhẹ gánh hồi bang
Vó câu rong ruối dặm ngàn
Văng nghe khúc nhạc dịu dàng đầu non
Tiếng văng vắng gọi hồn cố quốc
Khách văn nhân lạc bước Thiên Thai
Trên non bỗng thấy một người
Tiếng oanh réo rắt như khơi nỗi lòng
Ba cây gỗ xếp chồng làm một
Hỏi ai người trụ cột giang sơn
Một cây hô dễ lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao
Phùng sứ bỗng thấy điều kì dị
Gỗ xếp hàng tẩu dĩ mã băng
Mộc đề mão khẩu tiên
Thuỳ sơn xuất xứ hạnh Phùng văn nhân
Sơn đổi cạnh lờòng trấn như ngợi
Bỗng cơn đâu gió thổi lá bay
Bóng hồng đã khuất non Tây
Nhạc thiều còn vằng hương bay ngát trời
Dọc xuân:
Phùng giục Ngựa về nơi kinh địa
Hai năm sau chí sĩ hồi hương
Rượu bầu thơ túi xênh xang
Chạnh lòng nhớ lại khúc đàn năm xưa
Bèn dạo gót Tây Hồ phong nguyệt
Nước long lanh trời biếc non xanh
Trăm hoa ríu rit chim cành
Lầu trong đã thấy hiện hình xa xa
Lần bước tới thăm hoa dạo cảnh
Nhác thấy người đoạn chính anh thư
Hầu bên hai ả đào tơ
Rượu tiên bình ngọc lý ngư đượm mùi
Diện đổi diện đôi hồi chủ khách
Rượu ba tuần đàn địch sáo chênh
Vang vang khúc nhạc thanh bình
Vi vu địch lộng chênh chênh tiếng vàng
Phú nói:
Lời non nước tơ tường gặng hỏi
Trí Trương Hàm mở hội lập công
Thảo lư ấn bóng anh hùng
Đã lòng hạ cổ tơ lòng hôm mai
Phùng biết ý như say chợt tỉnh
Bỗng mặt hồ gió lạnh mây trôi
Tạ từ cảm kích lòng người
Khắp câu quốc vận bầy lời non sông
Hiềm vì nỗi quang âm bặt phát
Chí bình sinh bạc nhược còn đầu
Di du trúc trượng giang đâu
Chữ trung giành đế người sau dõi truyền
Kể từ buổi khách tiên kì ngộ
Lời ngọc vàng còn ở bên tai
Lý ngư rượu cúc bén mùi
Vui cùng đôi bạn tới nơi mặt hồ
Sung cô thụ vi lộ hưu hắt
Bóng tiến nương biệt tích nơi đầu
Nhấp nhô sóng vỗ bạc đầu
Bên cây còn vạch mấy câu hoạ vần
Thơ:
Vân tác y thường phong tác xa
Triều du Đầu Suất mộ yên hà
Thế gian dục thức ngô danh tính
Nhất đái sơn nhân Ngọc Quỳnh Hoa
Vãn cách:
Bấy lâu cách trở sơn hà
Nhớ quê Vân Cát mẹ cha xóm làng
Chúa từ trở lại quê hương
Thăm cha thăm mẹ xóm làng duyên xưa
Thăm thôi trở lại Thanh Hoa
Bên đèo quán mát rừng già luyện quân
Trăm ngàn mĩ nữ thanh xuân
Kẻ ra quan lộ người tuần rừng ngang
Kể chuyện: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh phổ phường
Tiếng đồn cô Tú đèo Ngang núi Sòng
Ai qua Phố Cát suối trong
Cờn xuân:
Thăm hàng cô Tú núi Sòng bao xa
Nhị cú: Đòi phen giấy động sơn hà
Chim hồng tung cánh bao la phương trời
Hay đầu nguyệt lão trêu người
Cơ duyên lại mắc cho người tài danh
Có người Kẻ Sóc Đông Thành
Văn thao võ lược thông minh tuyệt vời
Gần xa vang tiếng nữ tài
Tìm cho biết mặt biết người biết tên
Hạnh phùng khách tục nàng tiên
Trong tình non nước ngoài duyên cầm kì
Mặn nồng lá thắm thư đề
Trúc mai sum họp quê hoè nở bông
Bấy lâu thanh khí tương phùng
Chữ duyên đã vẹn chữ trung cũng tròn
Một niềm định tĩnh thần hồn
Chữ tòng đã tỏ nhường gương lầu lầu
Trời cao bề rộng sông sâu
Ai hay con tạoo cơ cầu trêu ngươi
Phú nói:
Bỗng một phút sao dời vật đổi
Tiết sơ tam đầu hội thanh minh
Buồng xuân hiu hắt trướng quỳnh
Gối đầu hai trẻ bên mình thiu thiu
Chợt nghe tiếng nhạc thiều văng vắng
Bạn tiên hằng lững thững ngoài hiện
Chập chờn tuyết phủ sương in
Rằng vâng ngọc chỉ rước tiên về trời
Giấc mộng tinh mấy lời còn nhớ
Åt hẳn rằng cớ sự chi đây
Bồi hồi dạ én chưa khuấy
Ngôn ngang nghĩa trước thương thay tình nhà
Lời mật dụ truyền ra Ba Dội
Vời lang quân thăng lối tin chày
Tơ duyên ngắn ngủi bấy chẩy
Non sông nặng gánh trao tay bạn hiền
Phú dầu:
Tình non nước nên duyên chăn gối
Tạ lòng vàng xin đợi mai sau
Xót tình con trẻ bấy lâu
Xa con lòng thiếp trăm sầu ngàn thương
Đành hai ngả âm dương cách biệt
Dao cắt lòng thảm thiết châu rơi
Phận đành nước chảy hoa trôi
Thấm nhuần cây cỏ muôn đời mai sau
Gương nữ kiệt cùng nhau soi mãi
Ngọn cờ đào áo vải nên công
Nữ lưu tỏ mặt anh hùng
Mở đường con cháu Lạc Hồng bước lên
Lời vàng ngọc phán truyền vừa dứt
Trở xe hồng phút ngắt xa bay
Phượng hoàng vỗ cánh lên mây
Ngựa về cửa ải lá cây về rừng
Dọc nhị cú:
Chúa từ buổi thoát vòng trấn tục
Đức oại linh như giục thế gian
Nơi xưa dọn quán bán hàng
Nhân dân lập miếu dựng đền kỉ công
Đèo Ba Dội đền Sòng Phố Cát
Giếng âm dương quán mát ai hay
Âm thầm chờ gió non tây
Phất cờ nương tử tung bay
Long Thành Khắp Nam Bắc nức danh từ đấy
Tiếng anh linh đã dậy gần xa
Đồn rằng Nghệ Tĩnh Thanh Hóa
Chúa tinh thần nữ hiện ra hại người
Tin báo cấp về nơi kinh địa
Hạ lệnh truyền tướng sĩ ra binh
Ẩm ầm nổi trận lôi
Dẫu sông cũng lấp dẫu thành cũng tan
Lửa đốt sạch Đồi Ngang Phố Cát
Phá tan hoang quán mát mọi nơi
Trách rằng đã cậy uy trời
Xem cơ tạo hoá trêu ngươi sau này
Kiều dương: Xứ Thanh Hoa từ ngày ách biến
Bóng liễu dương xuất hiện nơi nơi
Tiên dù lánh hạc về trời
Hồn thiêng vẫn ở lòng người thế gian
Khắp ba cõi thiện nam tín nữ
Tự xưng là Liễu Chúa ra oai
Làm cho chuyển đất động trời
Ruộng đồng nứt nẻ sông ngòi tiêu khô
Lửa đốt cháy kinh đô thành ngoại
Nước lan tràn hà hải mệnh mông
Sóng xô bão giật đùng đùng
Bờ kia cõi nọ nổi ong ào ào
Nội cơ cực kêu nào ai thấu
Cảnh bần hàn cá chậu chim kinh
Nhân dân biểu tấu đồng tình
Lập đền thờ chúa dân lành đội ơn
Hãm cách:
Bỗng biên ải Chiêm Man dấy động
Lệnh triều đình gióng trống ra binh
Bao phen giáp chiến tung hoành
Khôn đường sức giặc Chiêm Thành cường hung
Lui quân sĩ qua vùng Phố Cát
Giếng âm dương bóng mát nghỉ ngơi
Canh ba xuất hiện một người
Tâu xin dẹp giặc vì đời ra tay
Giấc mộng tỉnh vừa hay tin báo
Giặc Chiêm thành đường đạo tiến truy
Đùng đùng nổi giận bốn bề
Quân reo Ngựa hi bổ vây trùng trùng
Dồn cách:
Cơn gió cuốn mịt mùng các ngả
Hướng quân Chiếm cát đá tung bay
Thiêu hồn địa xám đêm ngày
Giặc Chiêm phút đã bó tay đầu hàng
Lệnh khải hoàn gia ban Chế Thắng
Tước đại vương truy tặng mâu nghi
Ngẫm câu sinh ký tử quy
Chữ sinh kia có ra chi mới là
Sinh cứu được muốn nhà hạnh phúc
Tiếng thơm bay khắp cả nơi nơi
Sắc thân tuy đã qua đời
Tử mà bất tử muốn người ca vang
Pháp thân tựa hào quang sáng tỏ
Soi loài người soi cả càn khôn
Anh linh thác vẫn như còn
Ngàn năm bất tử cháu con tiên rồng
Bỉ cách:
Tiên nhân Thần nữ cõi nam thiên
Tam thế giáng sinh sử dõi truyền
Đại Yên,Trần Xá dòng Phạm Thị
Tiên Hương Vân Cát ấy lương duyên
Sòng Sơn Phố Cát phen đại chiến
Đông Thành Kẻ Sóc nối dây duyên
Anh linh hiển hách phù Nam Việt
Chế Thắng tặng phong tối linh thiêng
Miễu cách:
Cảnh non tiến vẫn đài ngọc các
Chốn Quảng Hàn ngạt ngạt hương đưa
Linh Tiêu chính Ngự đế đô
Ngai rồng lồ lộ Đức Vua Ngọc Hoàng
Sân đan quế bách quan văn võ
Tiệc long đình yến vũ oanh ca
Đàn cầm dạo khúc ngân nga
Bách tiên chầu chực dâng hoa đôi hàng
Lầu bích ngọc vấn quang choi chói
Cửa quỳnh đài nhang khói trang nghiêm
Càn khôn thụy khi hạo nhiên
Cửu cung bát quái đôi bên trướng rồng
Cõi nhân gian tấc lòng như nhất
Lập trai đàn phẩm vật tiến dâng
Hương hoa kiều thỉnh thành tâm
Đệ trình sớ điệp trước sân quỳnh đài
Trên chín bệ long ngai lồ lộ
Sở dâng trình kích cổ tam thông
Đức Vua giá Ngự ngai rông
Án thư chấp bút sớ hồng Ngự xem
Trấn Sơn Nam trong miền
Phủ Nghĩa Quảng Nạp thôn, Trần Xá,Đại Yên
Phạm công tên hiệu Huyền Viên
Nhân từ đức độ vẹn tuyến không sai
Nghĩa trăm năm duyên hài phối thất
Phạm thái bà, Thuần Nhất tự danh
Chỉ hiểm cây ngọc lá xanh
Nụ hoa chưa hé trên cành lẻ loi
Hào tử tức đương thời hiếm muộn
Nỗi ưu buồn thấu chốn thiên thanh
Đức Vua thấu rõ sự tình
Mới bèn tra sổ phân minh tỏ tường
Phạm thái công vốn dường tiên giới
Giáng cõi phàm cũng bởi nhân duyên
Kíp hay có lệnh ban truyền
Phán đòi công chúa Hồng Liên vào chầu
Lời vàng ngọc cơ mẫu vừa dứt
Số Nam Tào bút ngọc chén biển
Tiên Nga lạy trước điện tiền Quỳ tâu
Thánh Đế truớc thềm trướng hoa Lạy
Vương Mẫu chính toà hậu chủ
Kinh quần thần văn vũ vừa thôi
Quần tiên tấu đối đôi lời Rằng
Tiên giáng hạ độ thời bao lâu
Đức Thượng Để điểm châu ngũ tự
“Tứ Phương Lai Cung Phật “thủ tiên
Hào quang chiếu tỏ cửu thiên
Phượng xa, lọng tía xuống miền trần gian
Cửa thiên mộn đội hàng tiên tử
Tiếng nhạc thiều nhắn nhủ tiễn đưa
Thống cách:
Cành thanh ai vẽ non tơ
Ngàn xanh mây thắm nhởn nhơ bầu trời
Gió thoang thoảng đượm mùi hoa huệ
Báo tin mừng nguyệt quế khai hoa
Giáng sinh mồng sáu tháng ba
Vẻ thanh dáng ngọc dà dà tóc tiên
Nét tinh tú thiên nhiên phẩm chất
Đoá huệ quỳnh nhan sắc khôn so
Hoàng anh cất tiếng líu lo
Đào huê đua thắm ngẩn ngơ nỗi niềm
Đôi thung huyện vui mừng khôn xiết
Ngẫm Phật Trời thấu biết lòng ta
Đặt tên công chúa Tiên Nga
Mình vàng vóc ngọc nết na dịu dàng
Đức hiếu thảo lại càng gìn giữ
Đấng song thân ví tựa non cao
Ngày đêm khuya sớm ra vào
Quạt nồng ấp lạnh tơ hào chẳng sai
Tuần tam ngũ duyên hài đã tới
Đôi thung huyên ướm hỏi chiếu thân
Chúa rằng ơn đức song thân
Người Tiên vướng bận duyên trần làm chi
Công dưỡng dục sớm khuya đền đáp
Trọn chữ tòng non hạc cao xanh
Phạm ông nghe tỏ tâm tình Ngẫm thời
Bồ Tát giáng sinh hiện tiền
Lẽ trần duyên đầu thời gượng ép
Chốn khuê phòng cửa khép rèm che
Mặc ai ong bướm đi về
Lòng trinh gìn giữ phu thế chẳng màng
Bình cách:
Chữ tử sinh mây ngàn hạc lánh
Để thung đường về cảnh tây phương
Xót xa biết mấy cảm thương
Nhị niên, thân mẫu cũng dường cách xa
Cánh chim bay phút đà thăm thắm
Gánh hai vai nghĩa nặng tình thâm
Từ nay vắng bóng song thân
Cỏ hoa rặng liễu tần ngần xót thương
Suốt năm canh đêm trường thảm thiết
Ngày quên ăn vẻ nguyệt xót xa
Ngẫm chăng thể sự cũng là
Trách chi con tạo bởi ra nổi này
Vậy cơ nghiệp từ đây coi sóc
Việc trong ngoài cơ mực đảm đang
Đại Yên, Vi Nhuế danh vang
Nữ trung nghiêu thuấn lại càng nết na
Ngày mồng hai tháng ba định nhật
Chim hót mừng cảnh vật xôn xao
Bỗng đâu gió thổi ào ào
Tường vân ngũ sắc ngạt ngào ánh hoa
Nay mãn hạn loạn xa rước đón
Giở gót hài về chốn tiên cung
Trước vào bái yết bệ rồng
Sau thời dạo gót Quảng Cung mọi toà
Chốn quỳnh lâu yên hà thắng cảnh
Điện tam thai thất bảo long lanh
Đôi bên long phụng đua tranh
Có hồ thanh thuỷ có thành lưu ly
Điện Linh Tiêu uy nghi lồ lộ
Tiệc đan trì khánh thọ Vua Cha
Quần tiên gót ngọc vào ra
Tiêu thiều nhạc vũ đàn ca vang lừng
Đức Tiên Chúa vào dâng thọ tửu
Bỗng sảy tay rơi chén ngọc hoa
Long đình phật ý vua cha
Lệnh truyền sắc giáng
Tiên Nga cõi trần Phú chênh:
Phụng ngọc chỉ bất phân thời khắc
Hạ cõi phàm, hành sắc thông thông
Gió đưa thoang thoảng hương xông
Mới hay thân nữ tiên cung hạ phàm
Rằm tháng tám nguyệt quang rờ rỡ
Nụ tầm xuân mới nở cánh hoa
Hương thơm ngào ngạt gần xa
Mừng thay người ở cung nga mới về
Phủ Nghĩa Hưng thôn quê Thiên Bản
Tổng Thiên Hương,Vân Cát, Lê gia
Hình dung mắt phượng da ngà
Giáng sinh Lê thị tự là Giáng Tiên
Tươi vẻ thắm càng thêm dáng ngọc
Tốt nét hoa nhan sắc khôn so
Có khi hoạ bút ngâm thơ
Giọng loan thánh thót ngần ngơ nỗi lòng
Đủ mọi điều công dung ngôn hạnh
Khách thần tiên cốt cách thanh tân
Cát đằng duyên hợp tấn tần
Đào hoa xứng khách văn nhân rành rành
So ấy là mai thanh trúc quý
Đấng anh hùng sánh ví thuyền quyên
Có hay hai chữ lương duyên
Ngờ đâu con tạo làm lên sự này
Phú dầu:
Trách tạo hoá ra tay ứng biển
Nhỏ lệ sầu thảm thiết châu rơi
Lang quân dạ rối bời bời
Thung huyện ruột thắt mấy lời xót xa
Ngả âm dương dễ hoà ai biết
Để hoa rơi trăng khuyết ngọc tan
Đôi mươi mốt tuổi nhân gian
Hạn tiên đã tới xe loan phút về
Ngày mồng ba tháng ba ấy nhẽ
Mãn hạn tiên bóng xê non tây
Rầu rầu ngọn cỏ hấy hấy
Xót xa vẻ ngọc nét mày sâu thương
Bởi duyên nợ còn đương dang dở
Nhớ quê hương than thở khúc nôi
Vua Cha phán chỉ mấy lời
Rằng cho trắc giáng mọi nơi phi thường
Nỗi nhung nhớ quê hương
Thiên Bản Mượn gió trời cánh nhạn phút bay
Tới nơi cảnh vật đặt bày
Đường xưa lỗi cũ rặng cây hiên nhà
Åm con thơ xót xa tấc da
Lạy thung huyền nghĩa cả ân thâm
Bày lời thưa với lang quân
Nước non đôi ngả muôn phần nhớ nhung
Phút biến hoá thần thông một khắc
Dạo bốn phương nam bắc đông tây
Có phen nương gió cưỡi mây
Non bồng nước nhược đó đây đi về
Có phen chơi lầu khuê gác nguyệt
Cõi trời nam nhân kiệt địa linh
Thanh Hóa sơn thuỷ hữu tình
Đồi Ngang Phố Cát xinh xinh lạ nhường
Giếng âm dương soi gương điểm đót
Đỉnh Sòng Sơn chải chuốt dong nhan
Có khi dọn quán bán hàng
Cau trầu rượu thuốc đỉnh đang ghẹo người
Kẻ phàm phu buông nhời bất kính
Ấy như là bạc mệnh duyên ôi
Có phen xứ Lạng dong chơi
Văn nhân lạc bước gặp người tài danh
Phú nói:
Chốn cảnh thanh vịnh thơ ngâm đối
Bốn chữ đề như gợi sứ quan
Gỗ đầu thời để nằm ngang
“Băng mã dĩ tầu”sửa sang Linh Từ
Sai dân lập đền thờ Tiên Chúa
Phùng sứ quân giục Ngựa lai kinh
Tây Hồ nước biếc long lanh
Thảnh thơi dạo gót cảnh thanh tiêu sầu
Ngắm hoa cỏ muôn màu khoe sắc
Thoảng hương sen ngào ngạt gân xa
Bỗng đâu mây khói nhạt nhoà
Lầu thơ quán rượu xa xa tới gân
Lạc bước chân tây hồ phong nguyệt
Thoảng mặt hồ gió quyện hương sen
Văn nhân lạc lối cảnh tiên
Thoáng trông chủ quán đôi bên cô hầu
Nước trong xanh một màu biêng biếc
Tràn ý thơ ngọc tuyết ngâm nga
Thú vui nhấp rượu thưởng trà
Bóng chiều xê xế gió là là bay
Phút từ biệt chia tay chủ khách
Để nỗi niềm cảm kích bâng khuâng
Chạnh lòng quán cũ hỏi thăm
Gió đầu hiu hắt lặn tăn mặt hồ
Quán đâu thấy nhấp nhô gợn song
Rặng liễu bồ vằng bóng
Tiên nhân Gốc cây thơ hoạ đôi vần
Khách tiên kỳ ngộ duyên trần biết chăng.
Thơ:
Vân tác y thường phong tác xa
Triều du Đâu Suất mộ yên hà
Thế gian dục thức ngô danh tính
Nhất đái sơn nhân ngọc quỳnh hoa
Phú nói:
Thú ngao du gần xa khắp ngả
Gió Tây Hồ non nước
Thanh Hóa Sòng Sơn Ba Dội vào ra
Ngắm trăng đỉnh núi cầm ca trêu người
Ấy có hay duyên trời ước định
Bởi chăng là duyên nợ ba sinh
Một duyên hai nợ ba tình
Chỉ hồng chắp mối duyên lành một nơi
Dọc cách:
Đấng anh tài vốn người
Kẻ Sóc Phượng sánh rồng tơ tóc phải đôi
Mới hay sự bởi cơ trời
Rằng Tiên thượng giới với người trần gian
Trách duyên phận dở dang đôi lẽ
Lửa hương nồng lại để cách xa
Chim trời cá nước ai hoà
Ngưu Lang Chức Nữ lệ nhoà sông
Ngân Bỗng đâu thấy hồng vân ngũ sắc
Tiếng nhạc thiều dìu dặt đôi bên
Nhạc thiều như giục lòng
Tiên Hợp tan tan hợp chỉ thêm đeo sầu
Phút chia ly lệ châu than thở
Nghĩa phu thế dang dở bấy nhiêu
Ni non nói hết mọi điều
Có hay ly biệt lửa thiêu nỗi lòng
Nghĩa vợ chồng trăm
Âm con thơ than khóc xót xa
Cờn:
Vầng dương khuất lặn chiều tà
Loan xa rước đón hài hoa về trời
Dấu anh linh muôn nơi ngưỡng phục
Lập đền thờ chầu chực khói nhang
Bốn phương nức tiếng danh vang
Sòng Sơn Ba Dội Đồi Ngang ra vào
Có phen Ngự võng đào ngoạn cảnh
Ai người thời bất kính chẳng tha
Tiếng đồn khắp hết gần xa
Có Tiên Thần nữ biến ra hại người
Ai ngang ngược khó thời sống xót
Trẻ cùng già hoảng hốt sợ kinh
Tấu về cho tới triều đình
Lệnh nghiêm các tướng ra binh khảo trừ
Truyền lửa đốt đền thờ Tiên Chúa
Mịt mùng trời sấm dội non xanh
Hãm cách:
Mới đầu hay sự bất bình
Dấu thiêng Tiên Chúa anh linh đầu ngờ
Lúc bấy giờ ra uy trần thể năm tơ tóc
Sấm lừng vang góc bê chân mây
Trần gian mê muội có hay
U mê nhỡn nhục đêm ngày xót xa
Mới ra tay gần xa khiếp sợ
Lập đền thờ phụng sự mới thôi
Dồn:
Ngẫm thay sự bởi cơ trời
Bảo dân hộ quốc muốn đời vinh phong
Lập đến thờ ngàn năm nhang khói
Sắc Tặng phong choi chói muôn thu
Sử vàng ghi tạc thiên thư
Âm phù dương trợ giúp vua mấy kì
Sắc tôn phong Mẫu Nghi thiên hạ
Cửa linh từ nhang xạ ngát hương
Biển đề Hoà Diệu Đại Vương
Tấc lòng thành kính đèn hương đảo cầu
Dẫn sự tích văn chầu Tiên Chúa
Tâm chí thành phụng sự không sai
Chúa Tiên gia lộc ban tài
Khuông phù Nam Việt phúc lai thọ trường
Bóng gương loan mẫu đơn một đóa
Gió lay mành hương xạ thoảng đưa
Có Chầu Nguyệt điện thẩn thơ
Lánh miền cõi tục phận cư nam thành
Kiếp giáng sinh về nhà Lê thị
Cải họ Trần dẫu khí thiên hương
Nẻo sinh và có phi phương
Giả danh đòi một hoa vương khôn bì
Ngụ chốn quê Kẻ Dầy Thiên Bản
Phủ Nghĩa Hưng là chốn Sơn Nam
Trẻ thơ chưa biết thành phàm
Cầu linh còn vết để làm dấu thiêng
Tuổi thiếu niên cài trâm giắt lược
Giá duyên lành quê phước hợp nơi
Chăn loan gối phương lọ đôi
Ai người dưới nguyệt xe lợi tơ hồng
Nghĩa cương thường đáng thương đáng nhớ
Bỗng hài hoa lại trở gót tiên
Giờ dần mùng ba tháng thìn
Tuổi đôi mươi mốt rẽ duyên trần phàm
Ấy ai làm trêu thương gửi thảm
Kiếp hay nguyên hoành hạm về đâu
Phu quân ruột thắt đòi đau
Ông bà thương nhớ thảm sầu mấy cơn
Nghĩ Chúa ở cung tiền điện quế
Dễ đôi lòng trần thế xót xa
Ai hay tiên cũng nhớ nhà
Có ngày tháng ở phương xa hiện về
Thăm bản quê ông bà đất nước
Cửa nhà chồng vườn tược mấy nơi
Thăm rồi tiến lại ra chơi
Cây cao bóng mát là nơi duyên lành
Dưỡng tính tình tiếng từ tiếng trúc
Thương những người bạc phúc dân ngây
Vậy nên Chúa phải ra tay
Dễ thay mà giữ khôn thay mà phòng
Sự mơ màng thực hư thay đổi
Lòng trần ai mê muội biết đâu
Tuy rằng hồn tiết phách mầu
Chẳng thiêng sao dễ còn đâu đến rày
Cũng có ngày cưỡi mây nương gió
Vô Nghệ An sẵn có nhân duyên
Nước non ắt cũng tạm quyền
Cõi thanh cõi trọc kết duyên cùng bì
Ảy kiếp xưa hay là nợ mới
Hội phi thường mà Chúa sinh quang
Tuổi vừa ba bảy khôn ngoan
Hiếm đâu Chúa lại để con cho chồng
Chữ sắc không xem tướng mới biết
Nào của gì là kiếp là chăng
Tính thiêng nhẽ chẳng gió trăng
Ai ngờ phút hợp phút chăng nhớ hoài
Song vật vờ làm chi cho khổ
Đấng duyên lành sẵn có nhiều nơi
No ngày tiến lại ra chơi
Đồi Ngang phố Cát là nơi duyên lành
Giếng âm dương xưa nay đội mạch
Khi nắng mưa trợ khách gần xa
Đèo Ngang phố Cát vào ra Chốn này
cùng cõi Thanh Hoa đất lành
Chốn cảnh thanh tiên thường ngụ đó
Khách vãng lai từ đó chưa hay
Vậy nên Chúa phải ra tay
Một giờ khôn bái hai ngày khôn van
Khách mặc oan phải nhiều phi mệnh
Bèn khởi tâu đòi lệnh nhà vương
Ngự tình cấp giận chẳng lường
Sai binh mã tới đèo Ngang khu trừ
Súng phát lên vang như sấm động
Dẫu thiêng nào dám chống quốc tuy
Trăm hờn ngàn giận ra đi
Than rằng má phấn khốn bì trượng phu
Ngỡ xét chi cho âm dương nhị khí
Chẳng ai ngờ lấy trí nạt nhau
Mệnh trời ai dám chi đâu
Còn bày ở thể xem nhau sau này
Chốn Sơn Nam từ ngày nguy vận
Ai dám còn dâng tiến khói hương
Nẻo xưa hơi lạnh tuyết sương
Hái hoa mặc thỏ, leo tường mặc chim
Chúng bạn tiên lên tấu thượng đế
Rằng có Chầu Lê thị xa chơi
Đèo Ngang phố Cát nghỉ ngơi
Nhầm con mắt thịt ra lời bạo hung
Đã phá bung nơi ngồi chốn ở
Lại thêm lời sỉ nhục nhuốc nha
Ngọc hoàng ngự lệnh phán ra
Ve nàng Quỳnh Quế bách hoa mỗi nàng
Xuống đèo Ngang vâng lời lệnh ngự
Xem Chúa tiên đức chính làm sao
Há rằng có trật thiên tào
Mà cho trần thế hỗn hào rất thân
Trách phương dân những người ở đấy
Sao con trời dám lấy làm khinh
Sơn xuyên ve lại các tinh
Ra oai sẽ thử uy linh hay quyền
Chẳng há hại nhân gian cho quá
Trời là cha thiên hạ là con
Ví ta thi mạnh đua khôn
Người nhân gian nọ nào còn dám đương
Vâng ngọc hoàng phán lời nhận thứ
Các bạn tiến vâng cứ ra đi
Đến nơi hỏa tốc tinh di
Trước để thăm chúa sau để trách dân
Dài yêu khi càng thêm yêu nghiệt
Quái dân càng sợ khiếp hơn xưa
Trên đây là 10 bản văn Mẫu đệ Nhị Địa Tiên được Tín Ngưỡng Việt sưu tầm. Cám ơn các bạn đã đón xem.
Kính chúc bạn luôn may mắn và thành công.
Xem thêm: