Mẫu Đệ Nhị : Tìm hiểu về Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên – Liễu Hạnh Công Chúa

“…Thỉnh mời Đệ Nhị Địa Tiên
Vốn xưa hiển thánh trong đền Sòng Sơn
Hình dong nhan sắc khác thường
Giá danh đòi một hoa vương khôn bì
Ngụ thai quê Phủ Giầy ,Thiên Bản
Phủ Nghĩa Hưng là quán Sơn Nam…”

Chim Phượng 2

Khái quát chung về Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên

Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên (Liễu Hạnh Công Chúa) là vị Thánh Mẫu cai quản miền đất đai nơi con người sinh sống, một trong bốn vị Tứ Phủ Thánh Mẫu.

Nguồn gốc: Con của Ngọc Hoàng Thượng Đế

Phủ/ nơi cai quản: Địa Phủ (miền đất đai dương gian, nơi con người sinh sống)

Lĩnh vực chính: Thánh Mẫu Thần Chủ của Đạo Mẫu

Sắc phong: Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương

Danh hiệu:

  • Danh hiệu chính: Liễu Hạnh Công Chúa
  • Thánh Mẫu Thần Chủ

Trang phục: Màu sắc vàng hoặc đỏ

Ngày khánh tiệc:

  • Ngày 24/02: Tiệc Sòng Sơn Quốc Mẫu
  • Ngày 03/03: Tiệc Đức Quốc Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên Phủ Dày
  • Ngày 6/3 đản nhật Mẫu Quảng Cung
  • Ngày 15/8 đản nhật Mẫu Phủ Giầy

Đền thờ:

  • Đền thờ chính: Phủ Dày, Nam Định
  • Phủ Quảng Cung, Nam Định
  • Phủ Tây Hồ, Hà Nội
  • Đền Sòng Sơn, Hà Nội
  • Phủ Đồi Ngang, Ninh Bình
  • Đền Sòng, Thanh Hóa, Phủ Tây Mỗ.

Thần tích Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên

Dưới đây Tín Ngưỡng Việt gửi tới các bạn chi tiết các thần tích 3 lần giáng sinh và trở lại Thiên Đình của Mẫu:

Thánh Mẫu Giáng Sinh lần thứ nhất (1434 – 1473)

Xưa ở Bắc Kỳ trấn Sơn Nam tỉnh Nam Định Phủ Nghĩa Hưng huyện Đại An xã Trần Xá có một người gọi là Phạm Thái Ông hiệu là Huyền Viên huý là Đức Chánh. Vợ quản ở Miêu Duệ gọi là Phạm Thái bà hiệu là Thuần Nhứt.

Hai ông bà ăn ở rất hiền lành phúc hậu. ngày đêm chỉ lo vun trồng cội đức, bồi đắp ngành nhân hằng tam đã sẵn hằng sản lại nhiều, cho nên sự làm phúc càng ngày càng tăng tiến, là là tô tượng đúc chuông, nào là xây chùa lập miếu, nào là san cơm sẻ áo cho kẻ bần cùng, nào là phát gạo cấp tiền cho người cô quả.

Nói tóm lại là không có một việc thiện nào mà không có hai ông bà họ Phạm.

Nhưng Phạm Thái ông và Phạm Thái bà có một nỗi buồn riêng là hào tử tức vẫn còn hiếm buồn rồi lo vì tuổi đã nhiều mà con chưa có, không biết lấy ai mà kế thế về sau để dữ lấy cơ đồ họ Phạm.

Thường ngày Phạm Thái ông và Phạm Thái bà cứ thiết đàn làm chay cầu trời khẩn Phật xin cho có con hậu tự lòng thành thấu tới trời xanh, Việc cầu tự Đức Ngọc Hoàng động tâm xét sổ Nam Tào thấy Phạm Thái ông khi xưa làm Phó sử Thiên triều Khâm Sai tra số bị có điều bất công nên phải bị trích xuống cõi trần thế; bởi vậy lời khẩn của Phạm Thái ông được trên Thiên Đình doãn hợp.

Đức Ngọc Hoàng tức thì hạ lệnh truyền đòi Đệ Nhị Tiên Nương lên chầu mấy phút sáu, đã thấy một vị Tiên Nương mặc áo hầu gót sen nhẹ bước quỳ lạy trước sân rồng chờ lệnh.

Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế phản rằng:

“Trần Hoàng cỏ Phạm Thái ông tu nhơn tích đức đã lâu mà chưa có con, nay cha muốn cho con xuống đầu thai làm con nhà họ Phạm ít lâu, rồi sẽ trở về Linh Tiêu, con nghĩ sao?”

Đức Tiên Chúa tâu rằng:

“Đội Đức Thiên nhan non cao bể rộng, không toan cưỡng lời, Hoàng phụ phản dậy mấy lời, con xin tuân mạng.”

Đức Thượng Đế nghe Tiên Chúa cũng vui lòng thuận xuống trần thì trong lòng vui vẻ lắm. Lúc đó quần Tiên tâu hỏi Đức Thượng Đế rằng :

“Cho Tiên Chúa xuống trần độ bao nhiêu lâu”

Đức Thượng Đế liền cầm bút son ngự phê hai chữ Linh Tiêu trên đầu tên của Đức Tiên Chúa và phía dưới năm chữ “ Tư phương lai cúng Phật ” rồi truyền cho lui chầu.

Buổi Thiên Triều hội nghị chính vào ngày rằm tháng sáu, năm quý sửu niên hiệu Thuận Thiên lục niên (1433) triều vua Lê Thái Tổ, giờ tí đêm hôm đó Phạm Thái bà nằm chiêm bao thấy có Đức Tây Cung Vương Mẫu, cho một quả đào mùi thơm ngào ngạt, kế đó Phạm Thái bà có Thai.

Đến ngày giáng thế, Đức Tiên Chúa trước vào lậy Đức Hoàng Phụ và Mẫu Hậu rồi trở ra chào văn võ bá quan cùng các vị quần Tiên và dặn dò đâu vào đó song rồi mới bước lên loan xa đã chờ sẵn trước Thiên Môn tức thì xanh ca đàn hát đôi bên, dập dìu phụng liễn xuống miền nhân gian, cờ bay nhạc thổi trống vang, theo hầu Tiên Chúa cả đoàn Tiên Nga.

Đêm đó Phạm Thái ông nằm ngủ mơ màng thấy các vị Tiên Nga vào nhà mình mùi thơm ngào ngạt, Phạm Thái ông vội vàng khăn áo chỉnh tề ra nghênh tiếp khi bước xuống thềm, vì lòng kinh sợ khúm núm thụt lùi, chật chân sắp ngã, lúc đó Phạm Thái ông giật mình tỉnh dậy thì Phạm Thái bà đã sanh một người con gái.

Nhãn quan lóng lánh tinh thần, mày ngần vành nguyệt giá ngần vóc sương, má đào môi hạnh phi thường, giá so Tố Nữ Tiên Nương khôn bì, lúc đó chính vào giờ Dần ngày mùng sáu tháng ba năm giáp dần niên hiệu Thiệu Bình nguyên niên, triều vua Lê Thái Tôn hoàng đế (1434). Trong nhà thơm nức mùi hoa huệ ai ai cũng lấy làm mừng, làm lạ.

Hoa huệ đó là các vị quần Tiên đem dâng lúc Tiên Chúa khi tạm biệt, Phạm Thái ông tháy con mình hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm, lại nhận thấy chiêm bao các vị Tiên Nga vào nhà nên đặt tên cho con là Tiên Nga.

Gặp cảnh lão bạn sanh châu Phạm Thái ông cùng Phạm thái bà chăm nom săn sóc cho một cách khác thường nói không hết được thật là:

Yêu như ngọc dấu như ngà, nưng châu rún biển hứng hoa lưng trời, mà thê trướng gấm thảnh thơi, thâm khuê dưỡng dục khác với tiên cung.

Phạm Thái ông cùng Phạm Thái bà từ khi sinh ra Tiên Chúa thường bảo nhau rằng:

“Từ khi kết nghĩa với nhau, đã hơn hai mươi năm mà chưa hề sinh nở lần nào, thế là biết hào tử tức của ta hiếm lắm, bây giờ ta đã già rồi mới có, chắc vì thường ngày chúng ta hay làm những điều phước thiện cho nên Hoàng Thiên không nỡ phụ lòng thiệt là cảm ơn trời phật không biết nhường nào.”

Phạm Thái ông cùng Phạm Thái bà nghĩ vậy nên lại lo làm những điều phước thiện hơn trước, ngày tháng thoi đưa, thì giờ thấm thoát, Tiên Chúa đã lên năm tuổi tức là năm Mậu Ngọ niên hiệu Lê Thiệu Bình ngũ niên (1438).

Đức Tiên Chúa biết mình thác sinh vào cửa nhà giầu trong lòng không lấy làm vui, Đức Tiên Chúa tự nghĩ sinh vào nhà nghèo thì Đức Tiên Chúa đễ báo hiếu hơn, đến năm Quý Hợi niên hiệu Thái Hoà nguyên niên (1443) triều vua Lê Nhơn Tôn Đức Tiên chúa lên mười tuổi, khi đó đã có trí thức thông minh, con gái trần gian vào tuổi đó đương độ thơ ngây, có biết gì là sự khôn dại là sự hiếu thảo, nhưng Đức Tiên Chúa đã xuất tính khác thường rất là hiếu thuận, cung phụng hai thân mùa hạ quạt mát, mùa đông chăn mền.

Những khi Phạm Thái ông hay Phạm Thái bà có đau thì Đức Tiên Chúa ngồi hầu luôn bên trướng, nửa bước không rời, lo chăm thang thuốc lo việc cháo cơm đến khi nào cha mẹ thiệt lành Đức Tiên Chúa mới an lòng.

Có một đêm vào mùa đông tuyết sương lạnh lẽo, Phạm Thái ông lâm bệnh đã ba bốn ngày thuốc thang không chuyển, Đức Tiên Chúa lấy làm lo lắm, Ngài biếng ăn đêm không ngủ, vóc ngọc mình mai mà bề ngoài giả dạng làm vui, để cho Phạm Thái bà yên dạ, nhưng thấy bệnh Đức Phạm Thái ông không giảm, Đức Tiên Chúa trong lòng hoảng hốt, lúc đó lẻn dậy một mình thắp hương ra giữa thinh không, khấn với Phật trời phù hộ cho cha bệnh tình thuyên giảm

Phạm Thái bà chở dạy sực tỉnh không thấy con, liền gọi cũng không thưa, bèn thắp đèn đi tìm, Phạm Thái ông thấy vậy cũng thức dậy.

Bất đò Phạm Thái bà ra đến giữa sân, thấy Đức Tiên Chúa đương quỳ khẩn nguyện, tuyết xuống phủ cả người, Phạm Tháí ông và Phạm Thái bà thấy con như thế cảm động quá, chờ cho con khấn xong, mới gọi vào thay áo đi nghỉ. Phạm Thái ông thấy con mình còn nhỏ, mà đã chí hiếu như vậy trong lòng khoan khoái vui tươi, từ đó về sau bệnh tình thuyên giảm, thiệt là:

“Năm nên mười tuổi khôn thay
Một bề hiếu thuận nết na ai tày
Thung thuyên sớm dép túi dày
Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra
Tôn thân thượng mục hạ hoà
Lời ăn tiếng nói nhu hoà khoan thai
Đủ đều ngôn hạnh công dung
So xem cốt cách khác người trần gian.”

Đến tuần tam ngũ phương phi, bạn tần khách tấn dập dìu vãng lai. Phạm Thái công mới hỏi con thời :

“Chiêu thân sớm định đế già tâm khoan, thấy con ngồi dưới gối thừa hoan thân con nên phải lo việc nhà.”

Đức Tiên Chúa nghe song thân dạy thế cũng cảm động, nhưng Tiên Chúa nhất định thủ tâm trinh bạch, bụi trần không chút vướng dơ, liền tự nghĩ thưa rằng:

“Nay con đội đức sinh thành
Ơn tày biển rộng nghĩa đà biển rộng non cao
Hổ thân chút phận thư đào
Hình tâm tử tức triệt vào cung phu
Cuộc đời như thẻ phù vân
Thần Tiên bận lấy duyên trần làm chi
Nhớ khi nuôi dưỡng phù trì
Nghĩ sao báo đáp ơn nghì cho phu
Con xin dốc chí đường tu
Chiều hôm ban sớm duy du vui cùng
Mặc ai mối điệp tin ong
Mặc ai lá thắm chỉ hồng bạn duyên
Khi xưa phẩm cách người tiên
Lẽ nào lỡ để hồng liên bùn lầy.”

Phạm Thái ông và Phạm Thái bà nghe con nói đã cạn lời, ngỡ rằng con mình tiền thân Phật Quan Thế Âm giáng sinh chăng, nên cũng chiều lòng con, không nói đến sự nhơn duyên nữa.

Đến năm nhâm ngọ niên hiệu Lê Thánh Tôn Quang Thuận tam niên, Đức Tiên Chúa hai chín tuổi thì Đức Phạm Thái công tạ thế.

Ngán thay dưới đất trên trời
Một người mà gánh hai vai thâm tình
Báo ân tử đức sinh thành
Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài.

Cử tang mới được hai năm, thì Phạm Thái bà cũng theo Phạm Thái ông về nơi cực lạc.

Tức là năm giáp thân niên hiệu vua Lê Thánh Tôn Quang Thuận ngũ niên (1464) Đức Tiên Chúa lên ba mươi mốt tuổi, Đức Tiên Chúa đau lòng xót ruột ngất đi tỉnh lại không biết mấy mươi lần.

Than ôi! Trên không anh, dưới không em phải một mình bối rối ngậm thảm nuốt sầu, khó bề toan liệu, bèn mời các bậc trưởng lão trong làng trong xóm lại bàn, các ông trông thấy đức Tiên Chúa nết na hiếu lễ, ai cũng thương tình rồi người giúp việc này kẻ đỡ việc khác sự tống táng Phạm Thái bà rất là trọng hậu.

Thân Đức Tiên Chúa bao quản tàn toan, nào hầu hạ họ đương làng nước, nào tiếp đãi kẻ viếng người thăm, nào lo việc thiết đàn làm chay cầu siêu cho song thân, nào lo việc tống táng an toàn nào là lo sắm cỗ bàn thực phẩm để tiếp đãi bà con làng xóm, một mình Đức Tiên Chúa trăm tính ngàn toan, lo đâu đó rất là chu đáo, sau việc tống táng xong rồi, Đức Tiên Chúa lại lo báo đáp những kẻ có công, lạy tạ những người giúp việc không sót một điều đáng trách được, đến tuần tứ cửu làm chay đại đàn bố thí bẩy ngày đêm, Đức Tiên Chúa cầu nguyện cho vong linh hai thân được siêu độ, lòng hiếu thảo thấu đến cửa thiên.

Đức Thượng Đế liền truyền đem bộ trắc giáng ra ngự lãm. Đức Thượng Đế thấy Tiên Chúa còn mười năm nữa mới đến hạn quy tiên.

Còn Phạm Thái ông cùng Phạm Thái bà hằng ngày lo làm điều phúc thiện, tu nhơn tích đức, cũng được siêu độ.

Từ ngày Thung Huyên khuất núi, Đức tiên Chúa buồn ràu ngày biếng ăn đêm biếng ngủ, chỉ thở vắn than dài không còn muốn gì nữa, ở trong làng có một ông cụ già thấy Đức Tiên Chúa nết na hiếu thuận cũng thương tình mới đến khuyên giải, bày vẽ cho Đức Tiên Chúa rằng:

“Đạo làm con, khi cha mẹ mất rồi, không phải là than phiền như thế mãi mới là hiếu, hai ngài không có con trai, chỉ một mình cô là gái, mà cô không xuất giá, thế là gái cũng như trai, cô nên giả sầu làm vui, chăm chỉ làm ăn, mà giữ bền cơ nghiệp kẻo một mai cơ đồ sa sát chắc hai ngài ở dưới cửu tuyền cũng không được thoả dạ, cô nên nghĩ lại khuya sớm giải khuây”.

Đức Tiên Chúa nghe nói, mới hồi tỉnh liền quỳ xuống lậy tạ mà rằng:

“Thưa cố, những lời cố dậy con xin ghi tạc vào lòng và ơn đó sau này con không giám quên”.

Từ đó về sau, Đức Tiên Chúa canh cửi vá may, lo lắng làm ăn, không buồn ràu như trước nữa. Có một hôm Đức Tiên Chúa thấy chiêm bao, có bà Tam Tinh Công Chúa lại nói rằng: Tôi là con gái Vua Động Đình, vâng mệnh đem vàng bạc châu báu lại giúp.

Quả nhiên trong khoảng mười năm đó, tài chí như xuyên, Đức Tiên Chúa làm, ăn phát đạt, chẳng bao lâu mà Đức Tiên Chúa giàu gấp năm gấp mười hơn trước.

Đức Tiên Chúa cảm cái ơn đó, nên bây giờ cứ đệ niên đến ngày hai mươi hai tháng tám là ngày kỵ vua Động Đình thì Quần Tiên hội lại trấn thiết lễ nghi làm lễ chiêm bái để tỏ lòng không quên gốc và ơn.

Đức Tiên Chúa giàu thêm lên bao nhiêu thì Đức Tiên Chúa làm phước thiện bấy nhiêu nào trợ cấp cho đồng dân, lo dựng chùa lập miếu cho làng, lo xây đắp mộ cho các vị Tiên Linh và sửa sang nhà từ đường để phụng sự, còn dư giả bao nhiêu Đức Tiên Chúa bố thí cho tất cả bốn phương dân cùng.

Ngày tháng thoi đưa chẳng bao lâu, mà hạn của Đức Tiên Chúa về Linh Tiêu đã đến, một buổi chiều kia về tiết mùa xuân năm Quý Tị hiệu Lê Hồng Đức thứ tư (1473) Đức Tiên Chúa chẵn bốn mươi tuổi, một hôm khí trời mát mẻ, trăm hoa đua nở trong vườn trên cành oanh hót líu lo, Đức Tiên Chúa cũng nhơn khi nhàn hạ dạo gót sen ra vườn thưởng ngoạn xuân cho tiêu sầu giải muộn, bữa đó chính là ngày mùng chín tháng giêng, Đức Tiên Chúa sực nhớ lại ngày đó là ngày vạn thọ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế rồi đức Tiên Chúa mơ màng ôn lại trong trí nhớ rằng:

Hiện bây giờ trên điện văn minh Đức Thượng Đế còn đương :

“Cân đai áo mão rỡ ràng
Các quan văn võ bày hàng hai bên
Quần thiên nhạc mới tâu lên
Trân châu mã não ngự viên sẵn bày
Kim Đồng Ngọc Nữ đông thay
Bàn đào đơn dược tiễn ngay ngự tiền”.

Đức Tiên Chúa nhớ vậy lấy làm buồn lắm lên thường thường trông cho ngày tháng mau qua để đến hạn về trời mà hưởng vui cùng chị em trong cung Quảng.

Bước qua tháng ba năm quý tỵ ( 1473 ) đêm mùng một Đức Tiên Chúa thấy vị Thổ Thần ( tức là Phùng Vương ) đến tâu với Đức Tiên Chúa rằng :

“Quảng cai long mạch bấy lâu, phụng sai rước Chúa về chầu Thiên Cung”

Tâu xong bỗng có trận gió ào ào làm cho đổ lộc rung cây, có một đám mây ngũ sắc dựng lên mùi thơm ngào ngạt, kế đó đá trên không trung rơi xuống, hiện ra các bà Tiên nữ, Đức Tiên Chúa xem ra đã thấy Quần Tiên chầu sẵn có hai bà Tiên nữ, một bà bưng quả ngọc thạch, một bà bưng quả ngọc đào, đệ nên dâng Đức Tiên Chúa, liền đó Tiên Cháu dở ra, quả trầu sẵn có con dao, quả đào, Đức Tiên Chúa liền cầm dao cắt quả đào chật tay rơi ba dây máu, ba dây máu ấy bây giờ gọi là ba khê Công Chúa.

Tiên Chúa còn đương xem ngón tay, thì xa loan đâu đã đến, đến nơi rước Đức Tiên Chúa về chầu Thượng Đế. Bữa đó chính là ngày mồng hai giờ dần tháng ba năm quý tị niên hiệu Hồng Đức thứ tư, triều Lê Thánh Tôn (1473).

Quần Tiên vâng mệnh chỉ truyền, Tam Tinh cùng với Chúa Tiên phản hồi khi Tiên Chúa về đến Linh Tiêu, trước vào bái yết Phụ Hoàng cùng Phụ Mẫu, rồi ra chào văn võ bách quan, sau đi thăm các vị quần Tiên cùng chị em trong cung Quảng thiệt là :

“Bầu trời cảnh Phật non Tiên
Mới hay vui thú khác miền trần gian
Linh Tiêu ngày tháng thanh nhàn
Tràng sinh đơn nhược rõ ràng là đây”

Tính từ khi Đức Tiên Chúa giáng sinh, năm giáp dần niên hiệu Lê Thiệu Bình nguyên niên ( 1434 ) cho đến năm quý tỵ niên hiệu Lê Hồng Đức tú niên ( 1473 ) là 40 năm, Đức Tiên Chúa chẵn bốn mươi tuổi, y như lời ngự phê, tứ phương lai cúng Phật, khi cho Đức Tiên Chúa giáng trần.

Đức Tiên Chúa trở lại thiên đình (1473 – 1557)

Bấy giờ Đức Tiên Chúa ở trên Linh Tiêu, tuy rằng vui thú non tiên song lòng còn nhớ tới miền Nghĩa Hưng.

Một ngày kia trên Thiên Cung nhơn tiện vạn thọ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế cờ treo ngũ sắc, đèn sáng muôn màu, trên bàn ngự sơn hào hải vị trước sân rồng vũ nhạc tiêu thiểu.

Liệt Thánh Liệt Tiên, bá quan văn võ, làm lễ chức thọ trước sân ngọ điện rất là tôn nghiêm, nhạc quân thiên vừa mới tâu lên, khúc nghê thường trước sân chen gót, cờ phất trống rung, khoái kỳ năm quanh quấn càn khôn, mùi trầm hương thơm lừng ngọc bệ.

Đức Tiên Chúa thấy thế, sực nhớ đến khi ở trần gian, Đức Tiên Chúa chưa khi nào làm lễ chúc thọ cho song thân được long trọng như thế, để báo hiếu cho cha mẹ, bèn cảm động quá thổn thưc trong lòng, chân tay rời rã.

Cho nên đến lần Đức Tiên Chúa dâng thọ tửu nên Đức Ngọc Hoàng thì bỗng sẩy tay rơi chén Ngọc.

Đức Ngọc Hoàng thất ý, liền truyền ghi tên vào sổ trích giáng trần thế, ( Lúc này là năm Lê Anh Tôn, Thiên Hựu nguyên niên, đinh tỵ).

Đức Tiên Chúa bị trích giáng không có ý bằng lòng, cho nên chân bên tả đi nghiêng, lệch không thẳng. Đức Ngọc Hoàng thấy thế bèn truyền Đức Thế Tôn lê phán rằng:

“Quỳnh Nương bị trích, ta thấy khi ra chân bên tả hơi lệch, tất sau này có cái biến phi thường, trần gian nhiều người oan khổ, vậy ngươi phải nhớ sai ba vị Tiền Quan, Trung Quan và Hậu Quan ra phép trừ đi mới khỏi”.

Đức Thế Tôn lãnh chỉ lui ra.

Tính từ khi Đức Tiên Chúa về chầu Thượng Đế ở trên Linh Tiêu từ Lê Hồng Đức tứ niên quý tỵ ( 1573 ) cho đến Lê Thiên Hựu đinh tỵ nguyên niên ( 1557 ) là tám bốn năm chẵn, lại bị trích giáng xuống trần.

Thánh Mẫu Giáng Sinh lần thứ hai (1557 – 1577)

Tại thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định có một người tên là Lê Thái Ông hiệu là Đức Chính, vợ Trần Thị Tự là Phúc Thuấn, ăn ở rất hiền lành phúc đức, ngày làm việc thiện gì thì đêm thắp hương cáo với Ngọc Hoàng, hậu thổ trăm lần như một, đến năm bốn mươi tuổi mới sinh được một người con trai đầu lòng tên là Lê Lục.

Đức Lê Thái Ông nguyên dòng dõi nhà Trần, nhưng sau gặp loạn Hồ Quý Ly và Trương Minh Phụ giết hại Trần Tôn thất nhiều qua, nên phải cải họ Trần ra họ Lê cho khỏi bị hoạ.

Đến năm Thiên Hựu nguyên niên triều vua Lê Anh Tôn ( 1557 ). Lê Thái Bà có thai lần thứ nhì, đã quá ngày sinh mà chưa sinh được, thường ngày các thức mặn không ưa, chỉ thích hoa quả mà thôi, trong nhà thấy thế ngỡ tưởng yêu quái quấy nhiễu, bèn thiết đàn mời thầy phù thuỷ đến có trừ tà trị bệnh nhưng không hiệu quả lại tăng thêm.

Một hôm về tuần tháng ba trời thanh trăng tỏ, có một ngưòi chít khăn nâu áo vải, ra dáng đạo nhơn, đứng ngoài cửa xin vào chữa bệnh, người nhà không cho vào, người đạo nhơn cười mà nói rằng:

“Ta đây có phép phục long, hàng hổ, xuất u nhập minh, thấy nhà ngươi ăn ở hiền lành, mới vào cứu giải, sao nhà ngươi lại không cho vào”.

Lê Thái Ông nghe nói liền mở cửa mời vào, người đạo nhơn vào nhà, thì xũ tóc lên đàn, miệng niệm thông thiên thần chú, tay rút cái búa ngọc trong tay áo ra, rồi ném xuống đất, tức thì Lê thái Ông mê thiếp đi, bằng theo tay ngã xuống, thấy hai viên lục sĩ đầu đội nón dấu, mình mặc áo giáp tay cầm hèo hoa, lại dẫn ông đi thì ông cứ theo đi, đường đi khúc khuất quanh co, càng lên càng cao, hết tầng này đến tầng khác, sắc trời mờ mờ, như sáng trăng, trông không được rõ, Đức Thái Ông đi mãi đã mệt, không muốn đi nữa, bèn nói vớí hai ông lực sĩ ngồi nghỉ nhưng hai ông không nhận lời, lại còn giục Đức Thái Ông đi gấp nữa và nói rằng: Kìa cửa Kim Khuyết đã gần đến nơi rồi, mời ông chịu khó đi gấp kẻo trễ, hai ông lực sĩ vừa nói vừa giục, tay chỉ cho Thái Ông xem, Thái Ông bất đắc dĩ cũng phải đi theo, được một chốc vừa đến, thấy một cái cửa làm toàn bằng vàng sáng chói cả mắt, phía ngoài cửa ở tầng trên có hai con rồng chầu mặt nguyệt, ở tầng dưới có hai con phụng ngậm quyển thư, ở tầng trong có hai con kỳ lân giỡn quả cầu, ở tầng dưới có hai con quy đội đồ bát quái, làm toàn bằng ngọc cả.

Đức Thái Ông ngẫm nghĩ một hồi thì hai ông lực sĩ đem áo lại cho ông thay, lại đưa ngài qua chín tầng cửa nữa, mới đến toà nhà làm bằng mã não, hai người lực sĩ bảo: “Ông đứng lại đó mà chờ ”. Mấy phút sau chợt trông thấy đám mây hồng dựng lên mùi thơm ngào ngạt, thấy ở trong đám mây bước ra một vị tóc bạc phau phau, khuôn mặt vuông chữ điền, màu da đỏ thắm, đội mũ bình thiên, tay cầm ngọc như ý, mình mặc long bào, ngồi trên một chiếc long ngai bằng vàng đế trên bệ ngọc, chung quanh mình có một đạo hào quang chiếu sáng rực rỡ khắp một vùng trời, bốn phía có che cái tàng tía hai bên có các quan đứng chầu áo mão xiêm đai, văn võ tướng kể biết bao nhiêu, rất là nghiêm chỉnh, ở dưới trần thế, Thái Ông chưa từng trông thấy.

Nhạc quân thiên bắt đầu tấu trước, khúc nghê thường chen gót múa sau, trên mâm lưu ly dâng quả bàn đào của Đức Vương Mẫu, trong bình đơn nhược của Đức Lão quân, hàng hà sa số châu bửu không kể xiết.

Một lát thấy một vị Tiên Nữ mặc áo hồng y vào làm lễ bưng chén ngọc rượu chúc thọ, sảy tay rơi xuống, lúc đó bên tả có một vị quan dở quyển sổ ngọc, biên vào ước chừng mười chữ, rồi thấy vị ngồi trên ngai rồng ở giữa thịnh nộ lôi đình liền của mắng: “ Sao ngươi không tròn phận sự giữa Đế Đình như thế ”.

Đoạn rồi có hai vị sứ giả, và mấy người thị nữ dắt người Tiên nữ mặc áo hồng ra đi ngã cửa nam, có một người cầm tiên bài đi trước, trên kim bài có đề hai chữ “ Sắc Giáng ”, ở đoạn dưới có hai chữ : “Nam Nam” ở dưới nữa thì có nhiều chữ nhỏ, vì Lê Thái Ông đứng xa trông không được rõ.

Lê Thái Ông quay lại hỏi hai ông lực sĩ rằng : “Đây là chỗ nào ? đó là ai? chuyện gì thế? ”.

Một người lực sĩ đáp rằng: “đây là Thiên Đình, người ngồi giữa là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn ngưòi con gái mặc hồng y là Đệ Nhị Quỳnh Nương bị trích giáng ”.

Người lực sĩ vừa nói xong thì ở phía sau là tả vu có một người quát hỏi các người làm chức tước gì ở nơi nào giám tới đây, hai viên lực sĩ thưa rằng chúng tôi là ngũ lôi thần binh, đến chờ chỉ, nói thế rồi hai viên lực sĩ lại đem ông về, lúc về thì bên thành trống đã tàn canh, thì Lê Thái Ông dần dần tỉnh lại. Lê Thái Bà đã sinh đặng một người con gái rồi.

Mùi thơm ngào ngạt, ánh hào quang rực rỡ đầy nhà ai cũng lấy làm vui mừng, trong khi cả nhà đang vui mừng cười nói, xóm làng bà con xa gần đều đến viếng thăm mừng rỡ, hiện lúc đó thì ông đạo nhơn biến đi lúc nào không biết, ai lấy cho là sự linh cảm, ngợi khen và bái tạ ông đạo nhơn.

Bữa đó chính là ngày giáp dần giờ dần tháng ba ( mùng ba tháng bính thìn ) năm đinh tỵ niên hiệu Lê Thiên Hựu nguyên niên triều vua Lê Anh Tôn (1557).

Lê Thái Ông tưởng đến sự xuất thần cho được trông thấy như thế, ắt là Tiên Nữ giáng sinh, rất là mừng lắm cho nên mới đặt con tên là Lê Thị Thắng hiệu là Giáng Tiên.

Nhà Lê Thái Ông, sở dĩ là được Đức Tiên Chúa bẩm sinh vào đó là nhờ được ngôi một tổ tam đại kết ngôi mộ đó toạ không hướng cấn ở xứ La Hào, thuộc làng An Thái huyện Vụ Bản.

Đức Tiên Chúa lớn lên, da trắng phau, tóc mây xanh mướt, mắt lonh lanh như thu ba, mày vòng cong hình bán nguyệt, nhan sắc dị thường, trần gian hiếm có.

Lê Thái Ông cùng Lê Thái Bà yêu dấu như châu, như ngọc. Cả ngày chỉ thay nhau bồng ẵm, tháng ngày thoi đưa, chẳng mấy chốc mà Đức Tiên Chúa lên năm tuổi, thường thường Đức Tiên Chúa ra chơi nhà ngoài, hỏi Đức Thái Ông những chữ trên câu đối, Lê Thái Ông bày qua cho một lượt Đức Tiên Chúa nhớ suất cả.

Lê Thái Ông thấy tư chất thông minh, mới bày cho vịnh phú ngâm thơ, và cho đi học. Đến năm mười tuổi (1566) là ngũ kinh tứ thư Đức Tiên Chúa đã thuộc lòng thông thạo, nói tóm lại Đức Tiên Chúa thông minh vốn sẵn tự trời và lại nhà Đức Thái Ông lại đông khách kẻ ra người vào, nên Đức Tiên Chúa không chuyên cần đặng sự học hành nghiên bút.

Đức Tiên Chúa liền xin phép Lê Thái Ông cùng Lê Thái Bà ra ở riêng một cái nhà ở vườn sau cho tịnh để đọc sách ngâm thơ, hai thân liền bèn chiều ý Đức Tiên Chúa.

Vì Lê Thái Ông và Lê Thái Bà thấy Đức Tiên Chúa thiên tư minh mẫn, nên đã làm săn cái nhà, đó là bản tâm để cho Tiên Chúa tịnh dưỡng và tiện bề đèn sách.

Đức Tiên Chúa thường hay đề thơ vịnh phú, đọc sách gẩy đàn.

Một ngày kia Lê Thái Ông dạo chơi trước sân, bỗng nghe Đức Tiên Chúa gẩy tiếng đàn thanh tao, văng vẳng như nhạc quân thiên ở trên Thiểm cung mà ông đã nghe trong mê thiếp theo hai viên lực sĩ ngày trước đó.

Lê Thái Ông mới nghĩ rằng, con mình là người Thiểm cung, thác sinh về nhà mình là nhà trần gian sợ không nuôi được lấy làm lo cho tương lai của con, nghĩ thế liền bàn với Lê Thái Bà rằng, con mình tôi dợ e khó nuôi, chúng ta lên đem gửi cho ông bạn là Trần Công là nghĩa nữ.

Bàn thế Đức Thái Ông cùng Đức Thái Bà đồng ý. Liền đem Đức Tiên Chúa gửi cho Trần Công, thì Đức Trần Công vui lòng nhận Đức Tiên Chúa làm nghĩa nữ.

Nguyên Trần Công là một ông quan hồi hưu, dòng dõi Trần Triều, kiều cư vào thôn Vân Cát, là quán cửa Thân mẫu ngài. Sau khi Trần Công đã bằng lòng nhận Đức Tiên Chúa làm nghĩa tử rồi Đức Thái Ông làm cho Đức Tiên Chúa một ngôi nhà lớn ở sân gần bên vườn hoa, cho Đức Tiên Chúa ra đó ở cho thanh tịnh cố chăm lo đèn sách.

Lại có một nhà lão quan họ Trần không có con nguyên một đêm kia, nhơn khi nhà hạ gió mát trăng thanh mới dạo gót ra vườn hoa chơi, tự nhiên gặp một đứa bé trai ở dưới gốc cây đào, ngài Trần lão quan liền đêm về nuôi đặt tên là Đào Lang.

Ngài xét thấy Trần Đào Lang thông minh đĩnh ngộ, diện mạo khôi ngô, Ngài liền cho đi học vì Trần lão quan cùng Trần lão bà không con nên thương chàng Đào như con đẻ, hết sức dạy vẽ đủ điều. Chẳng bao lâu đã vưn hay chữ tốt, tiếng tăm lừng lẫy khắp trấn Sơn Nam.

Đến năm quý dậu niên hiệu Gia Thái nguyên niên triều Vua Lê Thế Tôn (1573).

Chàng Đào Lang lên hai mươi tuổi, mà Đức Tiên Chúa đúng mười bảy tuổi, thường ngày Trần lão quan hay qua lại chơi nhà Đức Trần Công thấy Tiên Chúa nhan sắc tuyệt vời, thông minh quần chúng, bèn cậy người mai mối tới Lê Thái ông đẻ cầu hôn cho Đào Lang.

Song thân của Đức Tiên Chúa và Đức Trần Công nghĩ rằng nhà họ Trần lão Công cùng dòng dõi trâm anh, mà chàng Đào học hành cũng nức tiếng, đã đồng hương lại cân đối tài sắc, nên song thân của Đức Tiên Chúa cùng phụ, dưỡng mẫu đều ưng thuận.

Nhưng Đức Tiên Chúa một hai không chịu chỉ muốn thanh tu cho khỏi trần luỵ, nhưng Lê Thái Ông cùng Lê Thái Bà đôi ba lần khuyên giải và nhứt định hứa hôn cho chàng Đào Lang.

Tiên chúa tự nghĩ đã xuống cõi trần, thôi… cũng đành tạm kết duyên cho tròn quả kiếp, nên bất đắc dĩ cũng phải vâng lời cho đẹp lòng song thân.

Đến năm mười tám tuổi Đức Tiên Chúa bái biệt thân phụ thân mẫu về vu quy với chàng Đào Lang.

Khi Đức Tiên Chúa từ giã song thân, trở về với lang quân, cử chỉ trong gia đình rất là nghi lễ kính thờ cha mẹ, giữ đạo thành hôn, trong họ ngoài làng ai ai cũng đều khâm phục.

Được một năm Đức Tiên Chúa sinh được một người con trai, đặt tên là Trần Nhâm, mặt vuông tai lớn, miệng rộng trán cao, thiệt đúng là trang hào kiệt. Những khi nhàn hạ chàn Đào cùng Đức Tiên Chúa xướng hoạ thi ca, quang cảnh lạc thú trong gia đình ai thấy cũng khen ngợi.

Nhưng… than ôi! tạo hoá trêu ngươi, ông xanh cắc cớ, không ngờ chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.

Đức Tiên Chúa tự nhiên không bịnh mà mất, hưởng linh được hai mươi mốt tuổi, tạ thế ngày mồng ba giờ dần, tháng ba năm Đinh Sửư, niên hiệu Gia thái ngũ niên triêu vua Lê Thế Tôn (1577).

Tứ thân phụ mẫu của Đức Tiên Chúa đau lòng xiết nỗi thảm thương, làm lễ an táng rất hậu.

Mộ Đức Tiên Chúa táng tại cây đa bóng làng An Thái. Kế đó Đức Lê Thái Ông buồn sầu theo con rồi lâm bệnh cũng tạ thế mộ cũng táng tại đó, toạ càng hướng tốn, triều vua Gia Long thứ tư đổi xã An Thái làm xã Tiên Hương, đến nay vẫn còn đền thờ Đức Tiên Chúa tại đó.

Tính từ khi Đức Tiên Chúa giáng trần lần thứ hai là năm Đinh Tỵ niên hiệu Lê Anh Tôn, Thiên Hựu nguyên niên (1557) cho đến năm Gia Thái Đinh Sửu ngũ niên, triều vua Lê Thế Tôn là hai mươi mốt năm ( 1577 )

Đức Tiên Chúa trở lại thiên đình (1577 – 1579)

Đức Tiên Chúa từ khi thác hoá về chốn Đế Đình lấy sự trần duyên chưa mãn trong lòng áy náy khôn nguôi.

Mỗi khi lên chầu điện Ngọc Hoàng, sầu ủ mày xuân, lúc hội tiệc Vương Mẫu, châu chan nét ngọc, các vị Quần Tiên thấy thế cũng thương tâm, mới tâu bày cùng Thượng Đế.

Đức Thượng Đế mới sắc phong : “Liễu Hạnh Công Chúa” cho phép trắc giáng phi thường, tiêu diêu tự thích khỏi nỗi u sầu. Đó là năm Kỷ Mão niên hiệu Quang Hưng nhị niên triều vua Lê Thế Tôn (1579)

Đức Tiên Chúa giáng lần thứ ba (1579)

Đức Tiên Chúa hiện thân về thăm quê hương lần thứ nhất.

Lúc đó tuân thừa mệnh lệnh, Đức Tiên Chúa về thẳng quê nhà, thì ở dưới này đã giáp lễ đại tường của Đức Tiên Chúa tức là năm kỷ mão niên hiệu Quang Hưng nhị niên triều vua Lê Thế Tôn ( 1579 ).

Từ ngày Đức Tiên Chúa tạ thế Lê Thái Bà sầu não, nhớ Tiên Chúa trong lòng sa xót nhơn một hôm từ mẫu của Đức Tiên Chúa ra thư phòng, kiểm điểm lại thư tịch và đồ dùng thì chỉ thấy chiều gió quấn mành xưa, mặt trời soi cửa sổ, đồ bài trí trước bàn son, nào là sách vở, nào là dàn sáo đều là nhện giăng bụi phủ, nên Thái Bà trông thấy quang cảnh thiệt là đồ vật tư nhơn nên động lòng quá nên ngất đi,

Hốt nhiên có một trận gió ở phương đông đưa lại, rồi thấy Đức Tiên Chúa hiện thân ôm lấy Lê Thái Bà mà gọi rằng:

“Thưa từ Mẫu lai tỉnh, con đã hạ trần xuống thăm từ mẫu.”

Lê Thái Bà bàng hoàng mở mắt xem, rõ là Đức Tiên Chúa mới nói rằng Đức Tiên Chúa đi đâu về đó? Chẳng phải con đã từ trần sao, hay là Tiên Chúa thần tiên bất tử?

Tiên Chúa làm thinh ứa hai hàng lệ, lúc đó Lê Thái Ông và hai ông bà Trần Công cùng người anh là Lê Lục thấy thế xúm lại nửa mừng nửa sợ, chàng Đào Lang cũng vừa bồng con lại than khóc thê thảm.

Tiên Chúa gạt nước mắt lậy mà rằng :

“Con thật thất hiếu, luỵ đến song thân, không phải con không biết đạo làm con để vui vầy dưới gối, song vì duyên số khôn lường, số trời khó tránh, xin song thân nhẹ đoạn tình thâm, tạm thâu giọt lệ.”

Lúc đó Tiên Chúa lại thưa với thân huynh, nhờ thân huynh hầu hạ song thân, còn phần muội hết hạn phỉa về chầu Thượng Đế.

Sau Đức Tiên Chúa lạy phu quân là chàng Đào Lang mà thưa rằng, xin phu quân bớt cơn sầu muộn để cho tiện thiếp phân biệt đôi lời, số trời đã định, cho tiện thiếp có ngần ấy thôi, xin phu quân xét lại mà di dưỡng tinh thần, kẻo hao mòn quý thể.

Kế đến Tiên Chúa lạy ông bà Trần Công mà thưa rằng:

“Xin hai thân yên lòng mà lượng thứ cho con”.

Ông bà Trần Công nói rằng, từ khi âm đuơng cách biệt, chúng ta hồn vơ phách vẫn, ruột héo gan mòn, bữa thường ngao ngán, giấc những mơ màng, tưởng đến hình dạng con chẳng nguôi tấc dạ.

Đức Tiên Chúa vô cùng xúc động mà thưa rằng:

“Con là Đệ Nhị Tiên Cung, bị trích giáng, ngày nay đã từ giã cõi trần, về chầu Thượng Đế, xong nghĩ đến ân thâm cúc dục nghĩa trọng cù lao, nên con xin tạm viếng thăm, gọi chút tạ ơn và cha mẹ có âm đức được liệt tên vào Tiên tịch ngày sau tất được đoàn viên”

Bây giờ chàng Đào bồng con ngồi nghẹn nói không ra lời, Đức Tiên Chúa thấy thế động tâm quá cũng rơi luỵ, bồng lấy con mơn mớn rất là thê thảm, chàng Đào nói rằng :

“Tôi may được phối hiệp lương duyên, cũng mong được bách niên giai lão nào ngờ đâu nửa đường ly biệt, nặng gánh sầu tư nay lại được kết cái duyên tái sanh nầy thật là hạnh phúc, xin nương nương lưu lại”.

Đức Tiên Chúa nghe nói thế lại càng xa xót trong lòng, khóc mà thưa rằng : “tôi cũng muốn ở lại hầu hạ lương nhơn cho trọn chữ tùng, nhưng số trời đã định, ở trần thế có chừng ấy thôi”.

Nói xong sụp xuống lậy chàng Đào hai lậy rồi biến mất. Chàng Đào thương tiếc quá khóc nên, cả nhà ai cũng khóc rất là thê thảm.

Khi đó, một ánh hào quang trong nhà bay ra, mùi thơm ngào ngạt, rồi không thấy gì nữa.

Đức Tiên Chúa hiện thân về thăm quê hương lần thứ hai

Được ít lâu, chàng Đào tới kinh học tập và đem con theo nữa, nhưng phần thương con, phần nhớ vợ không tài gì học tập cho chuyên cần đặng, có một hôm đương tuyết sang thu, khí trời giá lạnh, lách tách mưa giỏ giọt thêm, nghe phiền trong dạ, chàng Đào buồn quá, bồng con ngồi ngâm hai bài tứ tuyệt cho đỡ buồn, thơ rằng:

Bài 1:

Trần kiếp ta hề lãng tử sinh
Tiền duyên ám tưởng bất thăng tình
Đương niên tư mã cầu hoàng khúc
Biến tác ly toan biệt hạt thanh

Dịch Nghĩa.

Kiếp bạc thương thay uổng một đời
Duyên xưa ngẫm lại lúc nào nguôi
Cầu hoàng Tư mã đàn năm trước
Loan hạc bây giờ bỗng lẻ đôi

Bài 2:

Cô sầu khách để bất thành miên
Huống thị thê phong khổ vũ thiên
Thiên nhược hữu tình ưng niệm ngã
Mạc giao phong vũ quá song tiền.

Dịch nghĩa.

Quán khách buồn tanh gối chẳng yên
Huống trời mưa gió lại thêm phiền
Trời kia có ý thương ta nhỉ
Mưa gió đừng cho lọt mái hiên

Chàng Đào Lang ngâm thơ vừa xong, thì hài nhi cũng vừa an giấc, lúc bấy giờ bỗng đâu gió lạnh thoảng qua, ngọn đèn nửa mờ nửa tỏ, lắng tai có tiếng người kêu, chàng đứng dậy nhìn thì Đức Tiên Chúa đã hiện thân dần, chàng Đào nửa mừng nửa sợ, níu áo khóc mà than rằng:

“ Nương nương ơi! Tôi là thơ sanh trần tục tốt duyên dầy phúc, được gặp người Tiên lòng những mừng thầm, con trai đã có, nhà cửa vẻ vang những tưởng trăm năm vàng đá.

Ngờ đâu dứt gánh giữa đường, phụng rẽ loan chia để một mình vò võ, ngao ngán thay chiếc gối mơ màng, thật là trăm sầu nghìn thảm dẫu cho gan vàng cũng nát, dạ sắt cũng tan, nay xin nương nương cho tôi nối gót theo cùng, cho thoả lòng sầu thảm mấy năm trời ”.

Đức Tiên Chúa lấy tay che mặt khóc mà thưa rằng:

“Xin lương nhơn đừng quá thương tâm như thế mà sai, chớ nghĩ tình duyên má phấn để phí lãng khoa danh vả lại nghiêm từ già yếu con trẻ thơ ngây, biết cậy nhờ ai.”

Chàng Đào Lang nghe Đức Tiên Chúa khuyên giải mấy lời, trong lòng xót xa lụy ứa thắm khăn liền nói với Đức Tiên Chúa mà rằng:

“ Chẳng phải tôi đây thiểu nghĩ, song mà gánh sầu nặng vai, dẫu có nắng giữ mưa gìn, sống được cũng e khó nỗi. ”

Đức Tiên Chúa an ủi rằng:

“Thiếp vốn Thiên Cung Tiên Nữ, còn lương nhơn là Đề Sở Tinh Tào, hai bên gặp gỡ tất có thiên nhiên tiền định, chẳng may nửa chừng bình rơi trâm gãy, để cho đôi ta nuốt thẳm ngậm sầu, vả lại tình duyên chưa mãn, khoảnh khắc trong ba mươi năm, đôi ta được tái hợp, xin lương nhơn tạm gác cơm sầu và chăm nuôi con khôn lớn trưởng thành, chớ nghĩ đến thiếp lòng phiền đeo nặng.”

Nói đến đây trăng vừa lạc bóng, trời sắp rạng đông, Đức Tiên Chúa đứng dậy thưa với chàng Đào rằng:

“Bây giờ âm dương cách biệt, mỗi khi thiếp nhớ đến quê hương, lòng đau như cắt, dạ nòng như nung, thiếp nhờ lương nhơn thay thiếp viếng thăm, trước nữa cha mẹ thiếp, được khuây lòng, sau lương nhơn trọng bề bán tử, và xin lương nhơn thay thiếp hầu hạ song thân cho trọn bề hiếu nghĩa, hết phận làm con.”

“Còn tuy việc vợ chồng, tuy là bể ái nguồn ân, song mà số phận tại trời, chẳng phải là thiếp ham nơi bổng dảo mà phụ nghĩ tào khang, xin lương nhơn đổi sầu làm vui kẻo bao mòn quý thể.”

Đức Tiên Chúa nói song biến mất, chàng Đào ngơ ngẩn nhìn theo mà tuôn hàng lệ không biết làm sao đặng.

Đức Tiên Chúa hiển linh ở Đèo Ngang, Phố Cát, Ba Dội

Đức Tiên Chúa ở trên Thiên đình, khi bị trích giáng, chân bên tả đi nghiêng nghiêng, là có ý bất bình sẵn rồi, đế khi xuống trần lại bị lương nhơn lỡ dở, Đức Tiên Chúa phải nuốt tủi ngậm sầu, đắng cay ngàn nỗi nên Đức Tiên Chúa lại càng bất bình hơn nữa, vì thế Đức Tiên Chúa tái giáng biểu hiện không thường.

Khi thì hoá thành một người con gái đẹp, bán trầu rượu ở Đào Ngang Ba Dội ( giáp Thanh hoá Ninh Bình ). Khi hoá ra một bà lão già, mua bán các món thực phẩm. ở Phố Cát Đại Đồng, nguời trần thế không biết mà hỷ cợt điều gì , thì bị tai hoạ lập tức; Vì Đức Tiên chúa đẹp quá, cho nên những người ngu nhơn tục tử, ao ước đắm say, khi kết cuộc không thành, rồi đặt ra những câu hát sau nầy để tỏ lòng khát vọng:

“Ăn trầu nhớ miệng cau khô
Lên Đèo Ba Dội, nhớ cô bán hàng
Ăn trầu nhớ miệng cau khô
Qua đồi Phố Cát nhớ người năm xưa ”

Còn khi Đức Tiên Chúa hiện thân một cô gái đẹp ở Phố Cát Đại Đồng họ cũng đặt ra những câu hát như thế nầy, để tỏ lòng mơ tưởng;

“ Ai lên Phố Cát đại đồng
Hỏi thăm cô tú có chồng hay chưa
Có chồng năm ngoái năm xưa
Năm nay chồng vắng như chưa có chồng ”

Những người đặt ra những câu hát đó và người nào hát lại mấy câu hát đó đều bị tai hoạ cả, ai biết đều phải dốc lòng kính phục, tỏ dạ chơn thành, cúng vái cầu khấn, thờ lại được sỏ cầu như nguyện.

Lúc này Đức Tiên Chúa thấy tựa thân phụ mẫu đã già, còn lang quân mắc bề con dại, gia đình nghèo nàn sa sút, cho nên Đức Tiên Chúa hiện thân làm các tửu quán lâu để bán, lấy tiền ẩn giúp cho lang quân và tứ thân phụ mẫu.

Khi tứ thân phụ mẫu, mình già cưỡi hạc chơi mây, Đào lang làm lễ an táng, xong xuôi, ngài lo buồn mà lâm bệnh, thì cho thỉnh huynh trưởng của Đức Tiên Chúa là ông Lê Lục mà thưa rằng :

“ Nay em bịnh tình khó bề thuyên giảm, trên không cha mẹ, dưới chẳng một ai, may đội đức cao dầy, chỉ tổn anh lại cho em xin bái biệt, còn chút con thơ xin cậy cùng anh bảo dưỡng ”.

Đức Đào Lang nói xong, thì hồn đã chơi miền cực lạc.

Còn người con của ngài là ông Trần Nhâm nhờ người anh của Đức Tiên Chúa là ông Lê Lục nuôi dưỡng thành nhơn, tuy thế nhưng lòng của Đức Tiên Chúa vẫn cứ đeo thảm ngậm sầu, hiếu tình xót xa nghĩ đến bao nhiêu lại càng căm giận với cái trần kiếp bấy nhiêu.

Đức Tiên chúa trong lòng bực bôi cho nên hiển hiện phi thường, nào là bọn ngu nhơn nào là bọn kiêu lẫn gian dâm, Đức Tiên Chúa ra oai sát phạt, thiên hạ chết nhiều nhân gian khổ sở, tiếng than vang oán trách đến trời xanh.

Chuyện về Mẫu Liễu hiển linh ở Đèo Ngang

Liễu Hạnh bèn hoá thân thành cô gái đẹp, dựng quán tại chân Đèo Ngang trên đường thiên lý Bắc Nam là đoạn đường vắng, xưa có nhiều giặc cướp. Từ ngày có quản, mà chủ quán lại là cô gái đẹp nên ngày nào cũng đông khách.

Khách vào ăn uống nghỉ ngơi rồi đi thì không sao, nhưng kẻ nào thấy chủ quán xinh đẹp giở thói cợt nhả trêu ghẹo, hoặc cậy thế thần làm điều bất chính thì khi về nhà không lăn đùng ra chết thì cũng hoa thành ngây dại bệnh tật.

Chuyện chủ quán Đèo Ngang lan truyền khắp nơi, người cho nàng võ nghệ hơn người, kẻ bảo nàng là kẻ giang hồ quyến rũ trai tơ và làm điều không lương thiện. Cũng có người cho rằng nàng là tiên giáng thử thách phàm trần… Tiếng đồn đại xa gần khiến nhiều chàng trai vô công rồi nghề, con nhà quyền thể, khá giả đã đến Đèo Ngang. Hoàng tử con vua cũng muốn sai người đi bắt nàng về nhưng sợ vua cha nghiêm khắc quở trách. Song bởi tính hiếu sắc nên hoàng tử đã sai quân linh chuẩn bị võng cảng và cải trang làm con nhà giàu vượt thành đến Đèo Ngang. Khi gần đến nơi, Liễu Hạnh biết hoàng tử là kẻ tầm thường, không bản lĩnh mà kiêu ngạo, đam mê tửu sắc. Nàng hoá phép thành cây đào tiên mọc bên đường, để hoàng tử ngồi nghỉ chân và trên cây có một quả chín mọng. Hoàng tử trông thấy thèm muốn, không thể ngồi yên, vội trèo lên hải quả toan ăn. Lạ sao quả đào bỗng dưng mềm nhũn rồi thu nhỏ biến mất. Thấy vậy bọn thị vệ khuyên hoàng tử cẩn trọng, hoàng tử cũng chột dạ nhưng chưa hiểu căn nguyên, ý nghĩa răn đe của chủ quán đèo ngang, nên vẫn thúc dục bọn lính cảng đi cho nhanh… Khi gặp chủ quán hoàng tử mê mẩn sững sở trước vẻ đẹp của nàng, cho rằng ở kinh đô các cung tần còn thua kém. Không cử hoàng tử mà bọn thị vệ cũng ngẩn ngơ trước sắc đẹp kiều diễm của nàng. Đoàn người lân la ăn uống đến tận chiều, trời gần tối mà chẳng chịu đi, lại ngỏ lời xin ngủ đêm tại quán. Chủ quán khước từ không nổi đành cho nghỉ lại.

Đêm trăng sáng dưới ngọn đèn dầu, chủ quán vẫn kiên trì ngồi tiếp chuyện hoàng tử. Lời nói của nàng êm dịu càng làm cho hoàng tử đắm say, quên lời hứa tìm cách ông bướm lả lơi. Trước sự thô bạo trăng gió sỗ sàng, chủ quản chạy vào buồng và hoàng tử không giữ thể diện đuổi theo giở trò xằng bậy. Chủ quán liền lên núi bắt con khi biến thành cô gái để đánh lừa hoàng tử. Trong cơn si mê không thấy chủ quán, nhưng thấy một cô gái khác trong buồng hoàng tử liền dở trò xuồng xã. Nhưng hắn liền rú lên vì trước mặt hắn không phải cô gái mà là con khi cái lông lá đáng sợ và khi bọn lính ùa vào thì con khỉ biến thành con rắn, trườn qua mình hoàng tử leo lên xà nhà phun lửa phì phì, để lại cảnh hoảng sợ mê sảng của hoàng tử và lính triều đình. Sau cơn hoảng hốt, bọn lính vội vã đưa hoàng tử về kinh đô, mang trong mình căn bệnh mất trí, cười nói làm nhảm. Hoàng hậu lo lắng chạy chữa thuốc thang, vừa bưng bít hành tung sai trái của con, vừa tính chuyện cầu “Bát vị Kim Cương” trừ yêu quái.

Nói về bát bộ Kim cương là do Phật Bà Quan Âm hoa phép ra hai cái túi, một nỗi ở biển đông, một ở xứ Thanh. Sau hai cái túi nở thành hai đoá hoa và mỗi đoả biến thành bốn vị tướng có đủ phép huyền diệu để đi các nơi tiễu trừ yêu quái.

Triều đình sai người ra Xứ Thanh xin bùa của các vị Kim cương nên dần dần hoàng tử khỏi bệnh. Sau khi bình phục, hoàng tử kể lại chủ quán Đèo Ngang gieo vạ và vua Lê vô cùng bực tức, một mặt truất ngôi hoàng tử bởi tự tiện vi hành làm điều rằng bậy, một mặt sai điều tra hành vi của chủ quán đèo ngang. Sau một thời gian vua Lê nhận được sớ tâu về một nữ yêu quái, hiện hình làm gái đẹp bắt hồn đàn ông, nếu không có tài cao thì khó khuất phục. Triều đình điều các phù thuỷ cao tay đi trừ yêu nhưng đều bị chủ quản đèo ngang làm cho đại bại.

Triều đình cầu cứu tám vị Kim Cương và đại chiến diễn ra suốt ba ngày không phân thắng bại. Sau nhờ phép Phật Bà, chủ quán bị thu vào cái túi và đưa về triều đình trị tội.

Vua Lê biết chủ quản là Liễu Hạnh công chúa, con Ngọc Hoàng xuống trần trừng trị bọn đàn ông chòng ghẹo phụ nữ, áp bức kẻ cô đơn thì đổi giận làm vui, khuyên nàng đừng gây nảo động.

Ít lâu sau, Liễu Hạnh lại dựng lều ở đèo Ba Dội, xây dựng tưởng hào, tạo vườn đủ hoa thơm cỏ lạ, có cả có chim trở thành thắng cảnh. Ai vào ngắm cảnh, ăn uống rồi đi thì không sao, còn nếu dở thói trăng hoa, trộm cướp lập tức bị trừng trị.

Mấy năm sau Liễu Hạnh về trời để lại một con trai bàn tay thiếu ngón (lần trước sinh một con trai bàn tay sáu ngón) và đem gửi nhà sư nuôi thành tài. Như vậy là hai lần hạ trần Liễu Hạnh đều để lại cho đời nhân tài và truyền thuyết.

(Theo: newvietart.com)

Đức Tiên Chúa bị thu phép thuật

Nói lại lúc Đức Tiên Chúa hiển linh ở Đèo Ngang, Phố Cát, Ba Dội, triều đình tìm cách trừng trị. Có câu chuyện kể về sự kiện này như sau:

Lúc đó Đức Thế Tôn mới sai ba vị là : Tiền Quan, Trung Quan và Hậu Quan xuống ra phép giải trừ, cấm không cho Đức Tiên chúa sát phạt như thế nữa.

Ba vị quan này biết Đức Tiên chúa có phép lục trí thần thông của Đức Giao Trì Vương Mẫu trao cho khó lòng mà trừ được, nên khi xuống trần bèn bàn với nhau lập ra một kế để đánh lừa Đức Tiên Chúa.

Sau khi ba vị đó đã nhận biết hiện nay Đức tiên Chúa đã hoá ra người con gái bán trầu nước ở Đèo Ngang, vị Hậu Quan cũng hoá ra một người sứ giả, đầu đội mũ ni chân đi giày vải, mình mặc áo nâu, tay cầm gậy chúc đi vào quán của Đức Tiên Chúa và nói rằng:

“Bần tăng mấy lâu nay tu luyện ở trong núi kia, nghe nói Tiên cô lục trí thần thông, rất lấy làm hâm mộ, nay nhân khi nhàn hạ, muốn đến xin thỉnh giáo, không biết Tiên cô có vui lòng dạy bảo cho không ?”

Đức Tiên Chúa đương khi bất ý không ngờ, tưởng là sự thật đáp rằng:

” Phù phép tôi đây cũng có được ít nhiều, nếu hoà thượng không hiềm chê tôi là hèn mọn, tôi cũng xin sẵn lòng hiến thử cho một vài phép cho hoà thượng xem. ”

Nói xong Tiên Chúa vừa hoá phép vừa hoá rằng:

“Đây là phép : Hô phong hấp vũ;
Đây là phép : Động địa thăng thiên;
Đây là phép : Xuất u nhập minh;
Đây là phép : Phục long hằng hổ;
Đây là ấn : Ngũ hành;
Đây là quyết : Ngũ nhạc:
Đây là ấn : Ngũ phương;
Đây là quyết : Ngũ hổ ….”

Trong khi Đức Tiên Chúa làm phép và ấn quyết cho ông sư xem, thì hai vị Tiền Quan và Trung Quan đứng đằng sáu thu phép của Đức Tiên Chúa vào Hồ Lê cả.

Đến khi Tiên Chúa trổ tài xong, định thu phép vào, thì hồi ôi: Phù phép của Đức Tiên Chúa đã biến đi đâu mất cả, Đức Tiên Chúa biết là đã mắc lừa rồi, nhưng ăn năn cũng không kịp nữa;

Ba vị Quan đó liền nói với Đức Tiên Chúa rằng:

“Phép của Đức Tiên Chúa như thế, cũng đã nhiệm màu linh ứng, nhưng hãy còn thiếu , Tiên Cô nên luyện tập thêm đã”

Đức Tiên Chúa hỏi: ” thiếu gì ? ”

Ba vị quan đáp: còn thiếu tấm lòng từ bi, Đức Tiên Chúa còn đang ngẫm nghĩ, thì ba vị lại hỏi tiếp:

“Mấy lâu nay Tiên Cô sát phạt sanh linh nhiều quá, tổn hại đến đức hiếu sinh của đấng Thượng Đế. Vì thế ba chúng tôi vâng mệnh lệnh của Đức Thế Tôn, xuống đây nói lại với Tiên Cô biết, bây giờ chúng tôi hãy tạm thu lại bửu bối của Tiên Cô đã. Nay Tiên Cô nên tìm tới cửa từ bi tu luyện trong ít lâu, sau khi Phật quả viên thành chúng tôi xin giao lại.”

Nói xong ba vị đằng mây lên thượng giới.

Bấy giờ Đức Tiên Chúa mới tỉnh ngộ, lấy làm hối hận lắm, hối hận vì quá tin người mà đến nỗi tạm thu bửu bối, hối hận vì quá sát phạt sanh linh, để đến nỗi Ngọc Hoàng phải giận.

Đức Tiên Chúa thọ giới Phật tự

Lúc bấy giờ Tiên Chúa bỏ chỗ đó và đi vân du thiên hạ, đến địa hạt tỉnh Lạng Sơn, thấy non cao đường vắng, cảnh trí thiên nhiên lại có một ngôi chùa đổ nát, khói lạnh hương tàn.

Đức Tiên Chúa bèo vào chùa lễ Phật, xong ra ngoạn cảnh xem hoa, chùa đó gọi là chùa Thiên minh Tự, xây dựng trong một rừng thông, vượn hót chim kêu như rung chuông, như khõ mõ trước chùa lại có một cái suối bốn mùa nước chảy trong veo, lửng lơ mấy con cá như có ý nghe kinh, tuy cảnh trí đơn sơ, nhưng có vẻ thiên nhiên.

Lúc đó thoạt nhiên Đức Tiên Chúa thấy, Đức Phật Quan Thế Âm hiện thân thuyết pháp, Đức Tiên Chúa bèn quỳ xuống bạch Phật xin thọ giới.

Đức Tiên Chúa vào tu luyện chùa đó tức là năm đinh dậu, niên hiệu Quang Hưng thứ hai mươi. Triều vua Lê Thái Tôn ( 1597 ).

Phùng Khắc Khoan gặp Tiên Chúa ở Lạng Sơn

Khi nhàn hạ, Đức Tiên Chúa thường đặt một cái ghế, dưới gốc cây thông trước chùa gảy đàn và hát rằng:

“ Cô Vân lai vãng hề sơn thiếu nghiêu
U điểu xuất nhập hề lâm yêu kiều
Hoa khai mãn ngạn hề hương phiêu phiêu
Tùng minh vạn hác hề thanh tiêu tiêu
Tứ cố vô nhân hề quỳnh trần hiêu,
Phủ đàn trường khiêu hề độc tiêu dao
Hu ta hề, sơn lâm chi lạc hề
Hà giảm linh tiêu”.

Dịch nghĩa:

Mây kia chim nổi núi cheo leo
Rừng kia rậm rạp chim leo trèo
Bề ( bờ khe ) kia ngao ngát hoa trăm triều
Hang kia ào ào tiếng thông reo
Gẩy khúc đàn kia sự tiêu diêu
Ô hay! Thú vui rừng núi kìa
Kém gì Linh Tiêu !

Đức Tiên Chúa gẩy đàn, và hát song hốt nhiên có tiếng người đọc rằng:

“Tam mộc sum đình, toạ trước hảo hề nữ tử”

( Nghĩa là: Ba cây bỗ hợp trước sân, ngồi mà phô đẹp, đó là Tiểu Thư: nghĩa là thế, nhưng có ý hợp ba chữ mộc thành chữ sum hai chữ nữ tử thành chữ hảo. )

Đức Tiên Chúa nghe mà chưa biết người nào đọc, ngách ra xem thấy có một người đội mũ cao áo rộng, cưỡi ngựa đi trước, vài ba mươi người theo sau, và có cây cờ mao tiết, đề đi tiền đạo, Đức Tiên Chúa biết ngay là người đó vâng mệnh Triều Đình đi sứ:

Đức Tiên Chúa liền đọc lại một câu đối rằng:

“Trùng sơn xuất lộ tẩu lai sứ giả lại nhơn.”

( Nghĩa là: Hai quả núi ra đến đường chạy lại kẻ đi sứ đó là ngươi. Nghĩa tuy là thế nhưng có ý kết hai chữ Sơn thành chữ Xuất, hai chữ Lại Nhơn thành ra chữ Sứ. )

Người đó nghe đối lại hay quá, lấy làm khâm phục liền xuống ngựa vái chào thưa rằng:

Cô tên họ là gì? người ở đâu? Mà lại tài năng đối ứng như vậy ?

Đức Tiên Chúa chỉ vào trong núi nói rằng:

“Chính chúng tôi ở trong kia” còn tên họ Đức Tiên Chúa không nói.

Người đó lại liền đọc một câu rằng:

“Sơn nhơn bằng nhớt kỷ, mạc phi Tiên nữ giáng phàm”

( Nghĩa là: Người ở núi ngồi trên một cái ghế, há chẳng phải là bậc Tiên Nữ tới bậc phàm trần. Nghĩa là thế, nhưng cũng có ý kết hai chữ Sơn Nhơn là chữ Tiên chữ Nhất và chữ Kỷ thành chữ Phàm.)

Đức Tiên Chúa liền ưng khẩu đối lại rằng:

“Vãn tử đái trường cân, tất thị học sinh thị trướng”

( Nghĩa là: Con nhà văn đội cái khăn dài hẳn đó là kẻ học sinh hầu bên trướng. Nghĩa tuy là thế, mà cũng có ý kết hai chữ Vãn Tử thành chũ Học chữ Trướng và chữ Cân thành chữ Trướng.

Đức tiên Chúa đã đối lại cân chỉnh, lại có ý nghiêm… Đức Tiên Chúa coi người đó như là học sinh của mình, Người đó nghe song ngoảnh lại , Tiên Chúa đã đâu mất, lấy làm ngạc nhiên, liền đi tìm khắp trong chùa, và chung quanh núi đều không thấy đâu cả, chỉ thấy có một cây gỗ nằm ngang, ở giữa đường nhìn đi nhìn lại có bốn chữ:

“Mão Khẩu Công Chúa”

Người đó tán ra rằng:

“ Cây gỗ là chữ Mộc, gia thêm chữ Mão một bên, thành chữ Liễu, lại còn chữ Mộc gia thêm chữ Khẩu ở dưới là thành ra chữ Hạnh thế là sắp lại thành ra Liễu Hạnh Công Chúa ”

Bên cây gỗ nằm ngang đó , cách xa mấy chữ đó lại có cắm một cái thẻ, đề bốn chữ:

“Băng Mã Dĩ Tẩu”

Người đó lại đoán ra rằng:

“chữ Băng với chữ Mã hợp lại tức là chữ Phùng, chữ Dĩ với chữ Tẩu kết lại thành chữ khởi bốn chữ này là ý Công Chúa nói đương chờ ta là họ Phùng khởi công sửa sang lại ngôi chùa Thiên Minh này lại.”

Nguyên thời đó chính tên là Phùng Khởi, đậu hoàng giáp, bây giờ phụng mệnh đi sứ bên Tàu, nhân đi qua đó, vừa gặp Đức Tiên Chúa.

Những người theo hầu đó, nghe ông Phùng Khắc Khoan nói như thế ai cũng lấy làm kinh dị, ngài bèn đòi các phụ lão trong làng đó lại, giao cho một số tiền để sửa sang ngôi chùa đó, cho được hoàn toàn rồi ngài Phùng Khắc Khoan ra đi có đề một bài thơ rằng:

“Tùng lâm tịch mịch phớt nhân gia
Hốt thính nhân sơn sơn ngoại ca
Ca khúc nhiển vân nhân bất kiến
Mãng tiền sơn sắc bích sà nga ”

Dịch nghĩa

Rừng xanh tịch mịch vắng teo nhà
Tiếng hát đâu từ cạnh núi ra
Khúc hát cuốn mây người chẳng thấy
Mấy tầng xanh biếc núi nguy nga.

Đức Tiên Chúa ra tu luyện ở chùa Thiên Minh. Tự đó có một thời kì đã lâu; về sau Đức Tiên Chúa thong thả dạo chơi, khắp bốn phương trời, nào là nơi lâm tuyển, sơn thuỷ, nào là chốn thành thị chùa triền, cùng các nơi danh tiếng, lại tưởng nơi phồn hoa thắng cảnh, Đức Tiên Cháu xe mây cưỡi gió ra chốn đông kinh, dạo khắp các miền thắng cảnh.

Phùng Khác Khoan gặp Tiên Chúa ở Hồ Tây

Lúc đó Phùng Khắc Khoan đi sứ Tàu về, sung chức phán toà, kiểm điểm sứ bộ, thấy công việc rồi mắc, rất là phiền nhũng, sực nhớ đến lúc qua hồ Động Đình lên núi Hoàng Hạc, uống rượu ở núi nhạc Dương làm thơ ở sông Xích Bích.

Nhớ những cảnh trí như vậy, mà sinh mối cảm tình, ngài bèn xin cáo nghỉ, để đi tìm cảnh thế vui chơi, bầu rượu túi thơ, cùng bạn văn chương là Ngô Cử Nhơn và Lý Tú Tài, nhằm xứ Tây Hồ thẳng bước.

Để ngoạn cảnh tiêu diêu, đang lúc mùa hè, sắc trời quang xinh, ba ông qua khỏi một rừng, lại trải qua bao nhiêu cầu ngang quán dọc, vừa đến một nơi thoang thoảng, gió đưa mùi hương sen ngào ngạt, liếc xem thấy cảnh Hồ Tây, ông Lý Tú Tài lấy làm vui vẻ nói với ngài Phùng Thị Giảng mà rằng:

Quan huynh học rộng tài cao, nay gặp buổi trời tốt cảnh xinh, sao không vịnh thơ, xin quan huynh xướng trước cho chúng em theo sau, khi đó ngài Phùng Thị Giáng vịnh cảnh Tây hồ thơ rằng:

Danh lợi bôn ba nhứt phiến trần
Tây Hồ thốn bộ hốt nhân thân
Bồng Lai phương thượng giai hư huyền
Thuỷ tín Tiên phàm tống tại nhơn

Dịch Nghĩa

Bôn ba danh lợi giữa đường đời
Bước tới hồ Tây đã thảnh thơi
Phương trượng bồng lai đến huyền ảo
Mới hay Tiên tục tự lòng người

Ngô tú Tài vịnh thơ rằng:

Oánh nhiên phương thốn tục trần vô
Bao khoát càn khôn nhất hoạ đồ
Tễ nguyệt quan phong tuỳ sái lạc
Mục trung hà xứ bất Tây Hồ

Dịch Nghĩa

Tấc lòng chẳng vướng chút trần ô
giải đất chung trong một bức đồ
Gió mát trăng thanh đều cảnh thích
Bụng ta đâu cũng có Tây Hồ

Lý Cử Nhân vịnh thơ rằng:

Hoa nghinh khách điếm liễu nghinh thuyền
Tận nhật Tây hồ tận tuý miên
Tỉnh khởi thi đàm kinh tứ hoạ
Hử thân ưng thị trích thần tiên

Dịch Nghĩa

Hoa đón khách lâu liễu đón thuyền
Tây Hồ say miết ngủ liên miên
Câu thơ lúc tỉnh người người khiếp,
Mình nghĩ là mình cũng trích tiên.

Nghe hai ông vịnh xong, ông Phùng Thị Giảng khen rằng:

Giọng thơ anh Ngô thì thanh kỳ, giọng thơ anh Lý thì phóng dật, khí tượng hai anh tuy không giống nhau, nhưng tóm lại cũng đều là …Tiên…Tiên…thi cả.

Ông Ngô và ông Lý nói rằng:

“Giọng thơ của quan huynh vẫn có phong điệu đại gia, còn chúng em là bậc hậu sinh, có dám đâu mà giám khen ngợi.”

Rồi ba ông rủ nhau theo bờ Hồ Tây thẳng đến dặm hoà thăm thẳm, bóng nước long lanh, trông thấy trước xa có một toà nhà rực rỡ, trước nhà có đề bốn chữ:

“ Tây Hồ Phong Nguyệt ”

Hai bên của có đề hai câu đối rằng:

Hồ trung nhàn nhật nguyệt
Thành ngoại tiểu càn khôn

Trong phía trong bức sáo, có một nàng mỹ nhân mặc hồng y ngồi chính giữa, trông vào rất là trang nghiêm.

Ba ông đó có ý xin vào mà vị mỹ nhân không cho, ba ông lại chèo thuyền đi nơi khác.

Cách ba bốn tháng sau, ông Phùng Thị Giảng cùng hai ông Ngô, Lý uống rượu ngâm thơ như trước, khi đó ông Phùng Thị Giảng kể lại chuyện cho bạn nghe, lúc đi sứ bên Tầu, qua núi Lạng Sơn có gặp Đức Tiên Chúa, thế nào ba người sực tỉnh lại bảo nhau rằng:

“Có lẽ kỳ trước ở Tây Hồ chúng ta gặp được Đức Tiên Chúa mà không biết chăng.”

Nói đoạn, ba người lại rủ nhau đi chơi Tây Hồ, chèo thuyền tới chỗ cũ, chỉ thấy mấy cụm đào mà thôi, không thấy lâu đài nhà cửa như trước nữa, ba ông nhìn quanh quẩn thấy ở gốc cây đào có bài thơ chữ truyện rằng:

“ Vân tác y thường, phong tác xa
Triêu du đâu xuất, mộ yên hà
Thế nhân dục thức ngô danh tánh
Nhứt đại sơn nhơn ngọc Quỳnh Hoa.”

Dịch Nghĩa

Áo mây xe gió khác trên trời
Đâu xuất yên hà sớm tối chơi
Tên hiệu người trần ai muốn biết
Quỳnh Hoa Công Chúa vốn tiên trời.

Ba ông xem xong, thấy thi tứ tao nhã, ý tứ sâu xa, sau nghĩ mãi tán ra rằng;

chữ Nhứt với chữ Đại kết thành chữ Thiên, chữ nhơn với chữ Sơn kết thành chữ Tiên, chữ Ngọc với chữ quýnh kết thành chữ Quỳnh, còn chữ hoa đứng lẻ một mình là chữ hoa.

Tức hiệu của Đức Tiên Chúa, ông Phùng Thị Giảng đoán như thế, bây giờ ba ngài mới biết đích là ngày trước cũng là duyên kỳ ngộ vậy.

Đức Tiên Chúa tái hợp cùng Mai Sinh

Chính là năm kỷ mão niên hiệu Quang Hưng nhị niên triều vua Lê Thế Tôn ( 1579 ) tuy thế nhưng Đức Tiên chúa hiển thân về thăm quê hương hai lần rồi. Đức Tiên Chúa vân du thiên hạ khi ẩn khi hiện phi thường, lúc ngoạn cảnh danh lam, khi tiêu diêu bồng đảo trong vòng ba mươi năm, về sau chàng Đào tái sinh tức là Mai Sinh, bấy giờ chàng Mai Sinh được hai mươi tuổi.

Đức Tiên Chúa giáng hiện, tái hợp với chàng Mai Sinh là lần giáng thế lần thứ ba, kể từ đó tức là năm kỷ dậu niên hiệu Hoàng Định thập niên triều vua Lê Kình Tôn ( 1609 ).

Thế là Đức Tiên Chúa từ giã cảnh Tây Hồ qua núi Sóc Sơn Thanh Hoá, có một dãy núi toàn là cây đào xanh tốt, dưới lại có một hòn đá vuông bằng phẳng, Đức Tiên Chúa mới lấy cành lá quét sạch, ngồi chơi trông xem bốn bề cảnh trí thiên nhiên, không khác đào nguyên Tiên cảnh, nhưng hiếm có một nỗi vắng khách tri âm biết cùng ai ngâm thơ vịnh phú.

Đức Tiên Chúa lại gần bên khe nước ném hoa rụng mà chơi, bỗng thấy gã thư sinh, hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm thẳng đường Tây Mụ đi tới. Đức Tiên Chúa biết đích là Đức Lang Quân tái sinh mới đứng đàng xa bảo rằng:

“Tôi nhân đi chơi hội, vì qua vui chân bước tới, bây giờ quên cả lối về, may gặp quý khách qua đường, xin mong ơn chỉ giúp?”.

Gã thư sinh kia ngỡ tưởng cô gái giang hồ, không bằng lòng nên giả cách không nghe thấy rồi cứ rảo bước đi thẳng.

Nguyên gã thư sinh đó chính là Đào Lang thủa trước, nhân vì sầu uất, cho nên tái sinh lần nữa, lần này tái sinh vào nhà họ Mai làng Tây Mụ huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá. Chàng Mai tuổi mới hai mươi, chí khí khác thường, thông minh, song thân đều đã qua đời hết, anh em không có, nhà cửa lại nghèo, vợ con chưa có, ngày đó đi học về.

Không ngờ gặp Đức Tiên Chúa, tính ngài nghiêm chỉnh, ghét sự nguyệt hoa vả lại ngài không nhớ kiếp tiền sinh của ngài nên mới cự tuyệt.

Ngày hôm sau, chàng Mai Sinh đi học lại đi ngang qua đó, thấy có một mảnh giấy dán ở cây đào trông có bài thơ vịnh cây đào rằng:

Diệm chất thiên nhiên bất giả tài
Phương tâm trinh thủ kỷ niên lai
Khi dung trần tục đẳng nhà kiến
Trực đãi xuân quân thư đệ khai
Tố nữ tương tri trường ngã chiếu
Phong di truyền tín vị thuỳ môi
Tảo trí lưu thuỷ vô tình luyến
Mạc tử phi hồng trục khách bôi.

Dịch nghĩa

Vóc đẹp trời sinh há sửa bày
Lòng thơm gìn giữ mấy năm nay
Dễ dàng mắt tục bao giờ thấy
Lần lượt mùi hoa đợi gió bay
Bóng nguyệt quen nhau sai đó mãi
Tin xuân dưa mối đợi ai rày
Sớm hay dòng nước tình ai lãng
Nỡ để hồng rơi dục khách say.

Chàng Mai Sinh xem song bài thơ, khen rằng ” thật là tài nhả ngọc phun châu, không ngờ giữa trần thế đây lại có tiểu thư nào tài tình đến thế, thật là đáng phục”. Khi đó chàng Mai Sinh liền hoạ lại một bài thơ rằng:

Tạc kiến giao trì điện ngoại tài
Như hà Tiên chủng lạc trần lai
Mảng tiền phàm thảo nhàn vô ngữ
Độc bạn u lang không tự khai
Huyền quảng phong quang ưng thủ tiếu
Châu môn cuồng đảng, cảm thông môi
Tương phùng lâm hạ, tăng trù trướng
Dục tuý là phù nhứt tửu bôi.

Dịch Nghĩa

Liếc mắt đền Giao trước sẵn bầy
Giòng Tiên lưu lạc tới gì đây
Chán trông ngọn cỏ thầm thầm nín
Tiêng với mùi lang thoang thoảng bay
Đàn sáo xôn xao cười những thế
Bướm ong lơi lả dám đâu rày
Dưới rừng gặp gỡ càng vơ vẩn
Một chén non thần đã muốn say.

Chàng Mai Sinh đề thơ song, muốn đi tìm tiểu thư, nhưng sợ đường đột quá, vả chăng bữa trước thì làm sao, nay đi chỗ này, chỗ khác mà tìm cũng bất nhã, nên phải nén lòng mà về.

Lúc bấy giờ trời mưa dầm, ngót đã mấy ngày, lòng càng áy náy, chàng Mai Sinh liền làm luôn một bài thơ nữa cho thoả tình khát vọng.

Ngâm Rằng:

Tài hà giai, tình hà hào, nhứt phiên tài tình khiêu khách nào, khách nào kỷ thời hưu, tương tầm bất phạ giao.

Phong nhứt khởi, vũ nhứt khí, vu ta chỉ xích thành thiên lý, vũ bá phong dĩ nhất bạc tình, xuân sầu tịch mịch hột thường khuýnh kỷ hồi mộng nhiễm đào nguyên lý, dục bả thiên kim mãi nhứt tinh.

Dịch nghĩa

Tài kia giỏi, tình này hay, tài tình trêu ngươi chi lắm nỗi, trêu nhau thế thế à, tìm nhau chẳng ngại xa, cơn mưa cầm, cơn gió bấc hỗi ơi! Gang tấc xa thẳm, gì gió anh mưa tệ lắm thay;

Buồn xuân vắng vẻ chốt thoan nầy
Nguồn đảo xa thắm chừng bao nhỉ ?
Mưa tạnh nghìn vàng cũng muốn ngay.

Cách hôm sau, mưa hoà gió tạnh, trời đất quang minh, chàng Mai Sinh đi ra vẫn tưởng bài thơ chàng đế bữa trước, bị mưa phai lợt, chẳng biết tiểu thư nhà nào đã đọc đền cho chàng, khi chàng đến nơi xem, thì hoa đào tươi thắm, như lúc chưa mưa, bài thơ nét mực như y, mà người ngọc bây giờ không thấy, chàng Mai Sinh lại đem thơ trước, hoại lại thêm một bài nữa rằng:

Vạn chủng tương tưtrấn nhựt tài
Tầm phương nhãn phụ thử phiêu lai
Sổ hàng cẩm tự nhơn như tại
Nhứt trận xuân phong, hoạ chính khai
Thuỷ cổ trùng mông, quân hữu ý
Khiêu kỳ thác hận ngã vô môi
Vu ta kỳ ngộ thành ô hữu
Sầu hải mang mang tiếp độ bôi.

Dịch nghĩa

Trăm mối sầu riêng những rối bầy
Một phen nỡ phụ tới tìm đây
Người in chữ gấm đôi hàng mới
Hoa bén mùi xuân một tràn bay
Dạ ngọc ân cần khen đó cũng
Tin sương ngơ ngát giận ta rày
Than ôi ! gặp gỡ còn đâu thấy
Man mát bể sâu mượn chén say.

Chàng Mai Sinh hoạ bài thơ xong, bỗng nghe trong rừng có tiếng chào hỏi:

Chàng Mai Sinh ngoảnh ra xem, thấy Đức Tiên Chúa không xiết nỗi mừng, liền đến trước thi lễ mà thưa rằng:

Ngày trước được mong ân Đức Tiên Chúa có lòng hỏi đến, bần sanh này lấy làm cảm tạ, nhưng mắt trần không biết, dạ tục rất ngây, hồi tỉnh lại lúc đầu gặp gỡ, thơ sanh mong ân chẳng xiết, không ngờ hôm nay, Tiên nữ còn đoái tưởng đến hà nho, mà cho tái ngộ không biết quả phúc thế nào nay được như vậy.

Đức Tiên Chúa mời chàng Mai Sinh ngồi trên một tảng đá trắng bằng phẳng như bức ghế cẩm thạch, chàng Mai Sinh ngồi đoan toạ, Đức Tiên Chúa thưa rằng:

“Thiếp cũng là con nhà khuê các, ở nơi cạnh huyện này, song thân đều tạ thế, nhà cửa tiêu điều, không được bằng ai, nên phải lảnh chỗ phồn hoa, vào nơi lâm tuyền tịch mịch; may nay, thiếp gặp người kiệt sĩ chân nho, nên có ý giao cầu, nếu chàng không ngại ngần gần xa cho thiếp kết nghĩa trăm năm,thế là ba sinh hương lửa”.

Chàng Mai Sinh nghe bấy nhiêu lời chân trọng, đính ước trăm năm, rất là cảm tình.

Liền nói với Đức Tiên Chúa rằng:

Đa tạ Tiên nữ có lòng hạ cố; chẳng phụ kẻ hàn nho: nhưng song thân tôi đều mất sớm, anh em chẳng có nhà cửa lại sơ sài, thanh đam, chỉ một một mình theo việc bút nghiên.

Nương thân cửa Khổng, bây giờ tiên nữ có lòng đoái tưởng, tôi đâu dám phụ lòng.

Nhưng xin Tiên nữ miễn chấp cho tôi sẽ liệu bề mai mối.

Khi đó Đức Tiên Chúa nghiêm nét mặt mà thưa rằng:

Hai bên song thân quá cố, họ hàng thân thích đều không,biết lấy ai mà cậy người mai mối.

Thế đôi bên, “thiết bàn bái yết Thiên đình để xin kết duyên cầm sắt.”

Đức Tiên Chúa thưa song bấy nhiêu lời kề vịnh một bài như sau:

Thơ rằng:

Thiên thọ đào hoa hậu độ tài
Lưu Lang hà hạnh hữu trùng lai
Bách niên duyên trái hoàng thiên thập
Vạn học u sầu tận bãi phai
Thuỳ vị sích thằng đồ lãng ngữ
Ưng tri hồng diệp thị lương môi
Cao châm tự cổ đa tiền định
Mạo oán Thiên Đình truỵ ngọc bôi

Dịch Nghĩa

Mấy cụm đào hoa vẳn lại bày
Chàng Lưu nay lại trở về đây
Trăm năm duyên nợ dành xong hẳn
Muôn hộc u sầu cũng xoá bay
Duyên bén tơ hồng ai bảo chẳng
Mối đưa lá thắm bấy lâu nay
Cảo châm định định trước từ xưa vậy
Chớ oán sân trời vỡ chén say.

Chàng Mai Sinh nghe đến câu kết, mới hỏi nghĩa làm sao có chữ “ Thiên Đình ” với chữ “ Ngọc Bôi ”?

Đức Tiên Chúa thưa lại rằng, việc này sau sẽ biết, bây giờ tôi không giám thưa rõ, chàng Mai Sinh nghe vậy không giám hỏi nữa, liền theo nguyên vận hoạ lại;

Thơ Rằng:

Làm ngọc hà duyên phải cảm chủng tài
Hỷ phùng giai ngẫu tự thiên lai
Tích niên thu giạ, ngân kiều cách
Kim nhựt xuân viên ngọc toản khai
Xương thế tảo phùng phi phụng bốc
Ngự băng bất giả lịnh cô môi
Hàn nho giao bào tương hà nhi
Nguyện bả tân thi tạ nhứt bôi

Dịch Nghĩa

Lam ngọc duyên đâu, dám chắc mà
Lứa đôi may gặp tự trời cho
Xưa cầu ngân hán còn ngăn lại
Nay khoá vườn xuân đã mở ra
Bói hộp điềm lành, tin phụng đó
Vẳn đưa lời mối mặc ta hồ
Lấy gì tỏ giải lòng cho được
Xin mượn tơ tình tạ chén say.

Đoạn Đức Tiên Chúa với chàng Mai Sinh, hai ngài chỉ non thề ước, lậy tạ cao xanh.

Bây giờ hai ngài mới kết duyên cầm sắt, một nhà sum hiệp, khi ăn nói, lúc lễ nghi, xem trông âu yếm, đều cùng kính yêu.

Đó là Đức Tiên Chúa giáng sinh lần thứ ba tái hiệp với chàng Mai Sinh, là năm Kỷ Dậu tháng hai trọng xuân niên hiệu Hoàng định thập niên triều vua Lê Kính Tôn ( 1609 ).

Lúc bấy giờ chàng Mai Sinh đã phối hiệp được vợ, đã phong tư diêm thế, sắc tướng nghiêm trang, rồi từ đó về sau, cầm sắc hoà minh, khuê phòng lạc thú, cho nên có ý sao lãng sự học hành, không được chuyên cần như trước nữa. Lúc Tiên Chúa thấy thế không bằng lòng, một hộm Đức Tiên Chúa dệt vải đã khuya mà vẫn cứ dệt, để chờ Đức Mai Sinh đi chơi về, Đức Tiên Chúa mới lấy rượu ra ngồi đối ẩm, Đức Mai Sinh vô tình không biết, Đức Tiên Chúa không bằng lòng, nên mới bảo Đức Tiên Chúa rằng:

“Đêm nay trăng thu vằng vặc, cảnh sắc xinh tươi, trên trời nhị thập bát tú phân minh, Đức Tiên Chúa có nhớ ở chốn Thiên Tinh chăng nhỉ? ”

Đức Tiên Chúa nghe Đức Mai Sinh nói đến nhị thập bát tú, nên nhân đó, lấy hai mươi tám vị sao làm một bài thơ khuyên phu quân.

Thơ Rằng:

Nữ nhan thuỳ vị viễn thơ phong
Tất bả Nguy tâm định chủ chương
Lân chẩn Thất Hư phân Bích diệm
Nguyệt đê bảo giáp tá lâu quang
Liễu văn Tinh bính tu Sâm cứu
Cơ truyện Ngưu mao yếu tỉnh tường
Thuỳ thổ Khuê hàng tranh quỷ đẩu
Vũ môn Nhực vỉ sáu dương cang.

Dịch nghĩa

Nữ nhan sắc có ở khuê phòng
Giữ vững lòng siêng để chủ chương
Bên xóm đèn giong, tia gọi đến
Góc lầu trăng xế, bóng soi ngang
Thể văn ông Liễu nên xem kỹ
Lối truyện chàng Cơ phải xét tường
Mở miệng thơ hay tranh giải nhất
Vũ Môn vùng vẫy chí thêm hăng.

Đức Mai Sinh nghe thơ, biết là Đức Tiên Chúa làm thơ đó có ý khuyên mình chăm học, nên họa lại một bài đảo vận, cũng dùng hai mươi tám vị sao.

Thơ Rằng;

Thôn Ngưu quật tinh chí phương cang
Cơ thụ sâm truyền dĩ tất tường
Đẩu thất bích đề kinh quy đởm
Nguy lâu khuê vịnh động tinh quang
Giác tài thuỳ vị đê đường Liễu
Nhựt mảo đa tâm vi hán trương
Tố nữ thanh hư ưng chẩn ngả
Quế chi nguyệt thuỷ tống văn phòng. ”

Dịch Nghĩa.

Nuốt trâu đào giếng chí đương hăng
Kinh truyện Cơ, Sấm đã biết tường
chữ vách đề xong hồn quỷ khiếp
Thơ lầu ngâm đoạn, bóng sao ngang
Thi tài ai bảo thua ông Liễu
Giáp sức ta nào kém họ Trương
Ả Tố sẵc lòng thương ta nhỉ
Thì đem cành quế tới văn phòng.

Đức Tiên Chúa nghe Đức Mai Sinh hoạ thơ song liền nói rằng:

Kẻ nho nhã học cho cách vật trí tri, thông kim, bát cổ, đề ra thi thố với đời, lập lên sự nghiệp, còn như học vấn văn chương phù phiếm, vịnh phú ngâm thơ, chẳng sai lắm ru, xin phu quân tỉnh ngộ.

Đức Mai Sinh hai ba lần tạ lỗi nói rằng:

“Tôi sức tài hèn mọn, đáng chí phóng tâm, may nhờ hiền thơ nhắc nhủ”.

Đức Tiên Chúa nghe nói, biết là Đức Lang Quân hối quả, lấy làm vui mừng, nên lại trò chuyện xướng hoạ cùng nhau đến khi trăng lặn mới nghỉ.

Được hơn một năm, Đức tiên Chúa sinh một con trai, đặt tên Mai Cổn, thông minh đỉnh ngộ, biện mạo khôi ngô, thế gian ít có, sang năm sau Đức Mai Sinh đi thi, đậu cả hương và hội, xung vào hàn lâm viện, rồi bổ ra làm quan. Tính ngài giản dị cho nên công việc cũng rảnh rang, thườn thường cùng Đức Tiên Chúa uống rượu ngâm thơ, bên xướng bên hoạ, như gấm dệt, như hoa thêu.

Cảnh lạc thú trong gia đình Đức Tiên Chúa diễn ra như thế, được gần một năm thì hết.

Một hôm về cuối mùa đông, khí trời rét mướt Đức Mai Sinh cùng Đức Tiên Chúa ngồi đối diện bên cạnh lò lửa chuyện trò rất tri kỷ, ân nghĩa mặn nồng, thiệt là tâm đầu ý hiệp.

Hốt nhiên, nước mắt Tiên Chúa chảy xuống như mưa, bức tức nghẹn lời, nói không ra tiếng. Đức Mai Sinh lấy làm ngạc nhiên, hỏi cớ làm sao, Đức tiên Chúa thưa rằng:

Thiếp đây là Thiên Đình Đế nữ, chỉ vì nỡ tay đánh rơi chén ngọc, nên phải tạm trích xuống trần, thiếp cũng đã cùng phu quân tác hiệp một kiếp trước rồi, nhưng trần duyên chưa mãn, kiếp này lại tái hiệp một lần nữa, nay trích kỳ đã hết; thiếp phải phụng mạng về trời.

Nhưng thảm thay…thiếp nghĩ đến phu quân gối chiếc chăn đơn, khuy sớm không ai hầu hạ, nghĩ đến con thơ đầu xanh tuổi trẻ, ngày đêm ai kẻ bồng bế, thì lòng thiếp không nguôi cơn giận, khó nỗi khuây sầu…”

Thôi…nhưng …mà…ly hiệp bởi trời, hoan bi thường sự, bây giờ dẫu phiền sầu cho ra tóc bạc mà khóc cho chảy máu đào, cũng là vô ích.

Vậy, thiếp kính lậy phu quân, xin phu quân đừng quá thương tâm, mà không giữ nổi mình vàng vóc ngọc. huống chi con còn măng sữa, anh em chẳng có một ai, bây giờ thiếp phải về chốn Thiên Cung, chỉ có một mình phu quân, khi đau ốm lúc sầu phiền, lấy ai là người giúp đỡ, xin phu quan nghĩ lại, thiếp cũng biết sinh ly từ biệt thê thảm nhường nào, kể sao cho xiết, thứ cảnh thứ tình để cho phu quân trăm bề thống khổ, lòng thiếp thê thảm trăm đường cũng như phu quân vậy.

Đức Mai Sinh nghe nói, mắt vía hồn kinh, chân tay rời rã, rồi nói rằng:

Tiên, trần xa cách, may được kết duyên, nghĩa vợ chồng lẽ nào mà quên được; ôi ! sao mà dễ hiệp lại dễ ly như thế .

Đức Tiên Chúa thưa rằng:

Thiếp thờ phu quân đã bao nhiêu nay, xin phu quân lượng xét, thiếp không phải ham chơi bồng đảo, mà quên nghĩa tào khang, nhưng kỳ hạn quy tiên đã bức cận, không thể lưu lại được nữa.

Đức Mai Sinh nghe Tiên Chúa nói dứt lời thì Đức Mai Sinh lấy làm kinh hoàng, nức nở khóc không nói phô gì được nữa, đến cuối canh ba khi giờ sửu, Đức Tiên Chúa bồng con đến trước mặt Mai Sinh, Đức Tiên chúa khuyên giải một hồi, rồi cúi xuống lậy Mai Sinh hai lậy, để xin từ biệt; lậy rồi cầm lấy tay Mai Sinh khóc nức nở, tình cảnh thê thảm, Đức Tiên Chúa hết sức đau lòng.

Bỗng nghe có tiếng xe loan đã đến gần trước thềm nhà, Đức Tiên Chúa lại phân giải ít lời nữa, rồi bồng con trao cho Đức Mai Sinh.

Đức tiên Chúa quá đau đớn, lắm tay Đức Mai Sinh và tay con, một cách thê thảm vô hạn…kế lạy Mai Sinh mà bái biệt.

Đức Mai Sinh muốn níu lấy vạt áo, nhưng khi thấy ánh hào quang rực rỡ, thơm ngát cả nhà, Đức Tiên Chúa không còn ở chỗ đó nữa, Đức Mai Sinh xót ruột đau lòng quá độ, bổ nhào xuống đất, ngất đi một hồi lâu mới tỉnh.

Thế là Đức Tiên Chúa bái biệt Đức Mai Sinh khi đó hoá ra đạo Hào Quang sáng rực, mà đẳng không nhỉ thượng cả chơn hình, tức là hạ tuần tháng chạp năm canh tuất, niên hiệu Hoàng định thập nhứt niên, triều vua Lê Kính Tôn ( 1610 ) là hơn một năm.

Từ đó trở đi, Đức Mai Sinh ngày đêm rầu rĩ, chiều sớm nhớ thương, rượu không uống thơ không ngâm, việc quan bê trễ.

Thường thường than rằng:

Phàm người ta đi học ra làm quan, trên là vì nước, dưới là vì nhà, như ta đây đã không có tài kinh bang tế thế, và trên không có mẹ cha, dưới không có vợ và anh em lại đeo lấy cái lụy độc túc cô phòng, thế là có phải vì sự ăn mặc hay sao, mà còn đeo vào vòng danh lợi.

Nghĩ vậy rồi dâng sớ xin về hưu, về làm một cái nhà giữa rừng đào khi xưa đã gặp Đức Tiên Chúa, để dạy con thành tài trọn đời ở vậy.

Tính từ khi Đức Tiên Chúa giáng hiện lần thứ ba tại Sóc Sơn tỉnh Thanh Hoá, tái phối với Đức Mai Sinh là tháng hai năm Kỷ Dậu niên hiệu Hoàng Định thập niên triều vua Lê Kính Tôn ( 1609 ).

Cho đến khi Đức Tiên Chúa bái biệt Đức Mai Sinh mà lên tiên cung, là hạ tuần thánh chạp năm Canh tuất, niên hiệu Hoàng Định thập nhứt niên triều vua Lê Kính Tôn ( 1610 ).

Thế là lần thứ ba Đức Tiên Chúa tái phối hợp với Đức Mai Sinh hơn một năm.

Đức Tiên Chúa và Hai Vị Tiên Nương hiển thánh ở Phố Cát

Nói về Đức Tiên Chúa khi lên Linh Tiêu, tâu với đức Thượng Đế:

“cái án trích giáng trần của con nay đã hết hạn, nhưng con nhớ nghĩa ba sinh, tình duyên chưa đoạn, cúi đầu lậy xin Phụ Hoàng ban cho con đặc ân trắc giáng bất thường để được vãn lai trần giới.”

Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế xét thấy hai lần Đức Tiên Chúa bị tình duyên lỡ dở, nghĩ cũng thương tình, nên chuẩn tâu.

Rồi đòi nhị vị Tiên Nương, một vị là em dâu Đức Tiên Chúa, một vị là cháu Đức Tiên Chúa rồi ngài phán rằng:

“Phen này Quỳnh Hoa ( tên Đức Mẫu ) xuống trần tất có sự hay, bây giờ ta cho hai Nương đi theo để giáng phúc cho dân.”

Đức tiên Chúa và hai vị Tiên Nương đó, đều lậy tạ Đức Thượng Đế và hạ giới.

Phố Cát Tỉnh Thanh Hoá chỗ đó rừng xanh cây tốt, cảnh trí thiên nhiên. Ba ngài mới hiển linh ở đó dân thôn kinh sợ bèn thiết lập đền thờ.

Khoảng năm niên hiệu Dương Hoà thứ nhất ất hợi, triều vua Lê Thánh Tôn ( 1635 ), khách bộ hành đi qua lại trước đền thờ đó, không có lễ phép, và không xuống ngựa, xuống võng, đều bị ba Ngài khiển trách chết không biết mấy.

Lúc đó triều đình ngỡ là yêu quái, Sắc Mệnh cho ông Trịnh Hoàng Phúc đem một đạo binh tới đó trừ yểm.

Trịnh Hoàng Phúc cũng sợ khó lòng làm nổi, nên mời một ông thầy Phù thuỷ có danh tiếng trong nước, vào đó hoạ phù yểm trước rồi mới cử binh đi sau.

Thầy phù thuỷ cùng bốn người đạo tràng, vừa vào tới Đào Ngang ( gần hạt Phố Cát ) thì gặp một bà già, chống cây gậy trúc đi lom khom bên đường, thầy phù thuỷ hỏi rằng:

“Thưa bà, nghe nói ở đây có một con yêu tinh thường hay quấy nhiễu nhân gian lắm phải không?”

Bà lão đáp rằng: “phải ! nhưng ông hỏi làm gì?”

Thầy phù thuỷ nói: “Tôi là Pháp sư, ra đây để trừ yểm con yêu tinh đó, cho dân gian khỏi bị tai hại vì tay nó nữa”

Bà lão lại cười : “chớ ! ông phải coi chừng với con yêu tinh đó, nó cao phép lắm lắm, chưa chắc ông trừ được nó, lại nguy hiểm đến tính mạng nữa, tôi khuyên ông về thì hơn.”

Pháp sư nói: “Bà lão không phải lo gì, chuyến này nó sẽ biết tay tôi”.

Bà lão nói: “Pháp sư ơi, con yêu tinh đó kia kìa, chính nó đã hiện ra cô gái đẹp đương đi lại đó, ông phải lo mà chạy kẻo khốn”

Bà lão vừa nói vừa chỉ tay ra đằng xa, Pháp sư ngó theo không thấy gì cả, đến khi ngoảnh mặt hỏi bà lão, thì bà lão đâu chỉ thấy một cô gái thật đẹp ngó pháp sư mà cười một cách rất là kiêu ngạo, Pháp sư nổi giận nói:

“À!mày giám hỗn với tao à?”

Nói xong, niệm chú bắt quyết liên thiên, mà cô gái vẫn cứ ung dung đứng cười như trước, pháp sư càng ấn quyết, thì cô gái lại càng cười thêm, pháp sư tức giận quá, rút thanh gươm ra chém, cô gái đó cứ từ từ đi thụt lùi.

Pháp sư chạy theo hết sức cũng không kịp, chỉ cách vài thước mà thôi, pháp sư cố gắng hết sức bình sanh, chạy đuổi cho kịp, không ngờ khi lại gần đến nơi, thì vấp phải hòn đá chẹn ngang đường, ngã lăn xuống đó, sặc máu chết tươi, còn cô gái thì biến mất.

Mấy người đạo tràng đi theo pháp sư thấy vậy kinh hoàng liền về bẩm với Trịnh Hoàng Phúc Thúc, khi đó Trịnh Hoàng Thúc trong lòng bối rối, tấn thoái lưỡng nan, như đi thì sợ Đức Tiên Chúa làm chết, còn về e Triều Đình bắt tội. Sau đó ông quyết lòng đi, vì trước đã khỏi trái vương mệnh, mà sau khỏi bị nhục với triều đình, dầu có chết cũng vinh.

Nghĩ vậy, nên quyết chí cử binh đi, khi đi đường, gần đến Đèo Ngang thấy xác Pháp sư còn lằm ở đó, chẳng có hòn đá nào to lằm chặn đường cả, quân lính thấy thế lấy làm kinh hoàng lắm…

Khi đạo quân đi đến Phố Cát, thì Trịnh Hoàng Thúc ra lệnh đốt phá đền miếu, tức thì tên bắn mù trời, sấm vang dậy đất, non sông biến sắc, cầm thú kinh hoàng, trong chốc lát toà Đền ra tro. Không còn một mảy may gì cả, đốt đền song, Trịnh Hoàng Thúc vẫn bình yên vô sự.

Cách vài tháng sau, cả hạt đó mắc chứng ôn dịch, người và súc vật chết không biết mấy, dân thôn mới lập đàng cầu đảo, khi đó, hốt nhiên có một tiếng, rồi bảo rằng:

“Ta đây! Là Liễu Hạnh Công Chúa giáng ứng linh đồng, bảo cho các ngươi biết, chúng ngươi phải tâu với triều đình sửa lại Đền miếu hương hoả phụng tự, nếu không nghe lời, chúng ngươi còn bị hại nữa”.

Trong dân thôn có người hỏi: “Tâu Công Chúa, như ngài quả thiệt linh ứng, sao ông Trịnh Hoàng Thúc đem binh ra đốt phá Đền Ngài, Ngài lại không làm hại, còn như chúng con không có tội gì Ngài lại trách phạt là nghĩa làm sao ?”

Người đó vẫn đứng trên hương án nói:

“Ta không phải là không thiêng, mà không phải ta sợ gì Trịnh Hoàng Thúc, nhưng ta không muốn làm chết ai, là vì Trịnh Hoàng Thúc phụng mạng Vương Mạng, mà phá Miếu Đền, chứ không phải lòng nó muốn thế, như ta giết nó, ta mang tiếng chống Vua, nên ta không muốn giết, còn quân lính thì theo quân lệnh mà làm chứ chúng có giám ngạo mạn gì mà trị tội cho dáng. Còn chúng ngươi tuy không đốt phá, nhưng vì quá ngu suẩn, há mấy lâu nay lại không biết chị em ta hiển ứng ở đây sao? lại còn ngờ là yêu quái để đến nỗi triều đình phải sai quan quân ra đốt phá đền ta, cho ta mang lấy tiếng bởi thế, ta mới trị tội các ngươi bởi lẽ đó.”

Người đó nói xong, thì bổ ngửa xuống đất, một hồi mới tỉnh, ( người đứng trên hương án truyền đó, tức là Đức Tiên Chúa giáng đồng vào người đó ).

Lúc bấy giờ, dân thôn vâng lời, cử mấy ông Hương lão tới cửa Đế Đô để tâu bầy lai lịch sự linh ứng của Đức Tỉên Chúa.

Vua mới sắc hạ cho sửa Đền Miếu lại rất nguy nga tráng lệ.

Đức Tiên Chúa hiển ứng Vua Lê Thần Tôn sắc phong Thượng đẳng thần

Ngài sắc phong Đức Tiên Chúa:

Mạ Vàng Công Chúa, thượng đẳng tối lịnh tôn thần.
Sắc phong tại năm Lê Thần Tôn Dương Hoà Ất Hợi nguyên niên ( 1635 ).”

Từ đó phương dân nhờ phép Đức Tiên Chúa ra hộ, lại dược yên tịnh như thường, ai có cầu đảo việc gì thẩy đều linh ứng.

Đức Tiên Chúa và Hội thi Bách Thần

Đến năm Nhâm ngọ niên hiệu Dương Hoà thứ tám ( 1642 ) về tiết thanh minh, vua Thần Tôn lập ra một hội thi bách Thần thượng đẳng, để cho biết sự linh hiển của các vị Thần Tiên.

Trước một tháng, lệnh truyền ra khắp trong nước, thỉnh bách Thần thượng đẳng hội tại Điện Kiến Trung dự thí.

Đến bữa thi Vua Lê Thần Tôn ngự trên ngai vàng, để giám sát hai bên lính cẩn tín và thị vệ mang gươm cầm kiếm đứng chầu, ngoài sân rồng ở chính giữa đặt một dãy hương án, để cho bách Thần tựu hội; có đủ lọng vàng tàn tía bửu kiếm long đao, gương thắp đèn chong, trầm hưong ngào ngạt, hai bên sân văn võ bá quan áo mão cân đai đứn chầu để thị hành khảo thí, trông rất là oai nghi lẫm liệt.

Đến giờ thi vua truyền nhắc ra hai con trâu, một con đen, một con trắng, và phán rằng:

“Hễ nghe dứt một hồi chiêng, trống, vị Thần nào làm chết được hai con trâu là trúng tuyển”

Đoạn rồi lần lượt xướng danh hiệu vị nào vào thì đánh một hồi chiêng trống xong, mà hai con trâu không chết, thì lại xướng qua danh hiệu của vị Thần khác; từ giờ Mão cho đến giờ Tị mà chưa có vị thần nào trúng tuyển, vị thì chưa vật bổ được con nào, vị thì mới bổ được một con mà trống chiêng đã hồi.

Đến lần xướng đến danh hiệu Đức Tiên Chúa thì thấy tự nhiên gió thổi mưa sa, sấm vang chớp nhựt mù trời mịt đất, vừa dứt hồi chiêng hai con trâu lằm năn ra chết, đầy mình hai con trâu, có hơn vài trăm dấu vằm chém.

Vua phê, Đức Tiên Chúa trúng tuyển Giải Nguyên. Tức thời trời quang mây tạnh, hai con trâu lại được hườn sanh như trước.

Vua và bá quan, ai cũng lấy làm kinh dị sau vua lại truyền cho tung lên một cây lụa điều, phán rằng làm thành năm cái áo đưa xuống, Đức Tiên Chúa làm như lời.

Vua nhận thấy năm cái áo đưa xuống, rồi vua lại truyền tung năm cái áo lên hẹn kết thành cây lụa đưa xuống, thì Đức Tiên Chúa cũng làm hoàn thành cây lụa đưa xuống. Vua nhận xem cây lụa như xưa, rất là kinh dị.

Vua khen ngợi Đức Tiên Chúa rất là anh linh hiển ứng, nên kính phục. Tức thì vua bèn phong cho Đức Tiên Chúa là:

“Thượng thượng thượng đẳng tối linh, vi bách Thần chi thủ”

Đức Tiên Chúa liền hiện ra giữa không trung, một bức tường vân ngũ sắc như bức hoành thủ quyển, để bốn chữ đại tự: “Thánh Thọ Vô Vương” dưới đề sáu chữ nhỏ: “Tiên chúa Mạ Vàng Kính Tạ” Vua và văn võ triều đình ai ai cũng trông thấy, bức mây cứ đứng lưng chừng trước cửa Ngọ Môn hơn ba giờ mới tan, thần dân ai ai cũng kính phục, và khen ngợi tán dương sự linh ứng của Đức Tiên Chúa không thể tả cho hết được.

Đức Tiến Chúa hiển linh và trở thành Thánh Mẫu

Sau đến đời Vua Lê Huyền Tôn niên hiệu Cảnh Trị, co bọn mọi Xiêm làm loạn. Vua sai quận công là ông Phan Văn Phái đi tiểu trừ nhưng thế giặc hùng dũng quá, khó nỗi phá tan đựoc.

Ông Phan Văn Phái khi cử binh đi đến Đèo Ngang( thuộc hạt Ninh Bình) ghé vào Phố Cát đền thờ Đức Tiên Chúa, làm lễ tham yết mật truyện âm phò mạc hựu, rồi mới xuất quân, khi ông Phan Văn Phái kéo quân tới mặt trận, lúc giao phong thì hốt nhiên, thấy ù ù sấm chớp, gió quấn cát bay, nghe tiếng hò hét trên không trung, rất là dữ dội.

Ngài và quân lính lấy làm kinh hoàng, tuy vậy nhưng tự nghiệm, biết đích rằng mình có cầu nguyện với Đức Tiên Chúa giúp sức nên truyền quân tấn công, mới tấn công giây phút mà phá tan quân giặc.

Bây giờ ông Phan Văn Phái bảo với quân lính rằng:

Chúng ta không tài giỏi gì, đây là hoàn toàn nhờ Thần oai võ lực của Đức Tiên Chúa, đánh tan quân giặc này.

Lúc đó ông Phan Văn Phái với quân tướng đều cảm phục. Khi về đến Triều Đình liền tâu chuyện mình vào đền Phố Cát cầu nguyện Đức Tiên Chúa, và kể rõ lại khi xuất trận và oai linh của Đức Tiên Chúa hiển hiện phá tan quân giặc thế nào để Triều Đình nghe rõ.

Vua Lê Huyền Tôn nhớ tới công của Đức Tiên Chúa:

“Hộ Quốc Bình Nhung” liền hạ chiếu gia phong:

“Chế Thắng Bảo Hoà Diệu Đại Vương” và sắc cho ba tổng sở tại đó

Người Đời Tôn Xưng Đức Tiên Chúa Là Thánh Mẫu Từ Đây

Khỏi phải nạp sưu thuế, đăng lính, để phụng sự muôn thu, từ đó về sau linh ứng dị thường, ai cầu chi được nấy, cho nên người đời cảm cái công đức to lớn mới gọi Đức Tiên Chúa là Thánh Mẫu.

Lúc bấy giờ, đền Phố Cát là anh linh hiển ứng, quan thân sĩ thứ, và nam nữ đính gương lễ bái liên lạc không ngớt.

Vậy nên đền Phố Cát càng lâu càng huy hoàng tráng lệ, đền hiện bây giờ lại càng tăng quảng miếu điện thêm, nhưng dấu tích tự triều Lê Thần Tôn sáng lập vẫn còn y cựu sau phương dân chỉ trùng tu.

Đền Phố Cát thuộc về huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá, ngang qua núi Triệu Tường đi lên ngôi đền ở giữa quả núi như hòn non bộ chung quanh rừng rậm suối trong.

Trước toà đền có một cái suối sâu chảy bao ở trước, thông ra đền Rồng, trước đền ở dưới suối có thứ cá như là cá gáy( cá chép) miệng đỏ đuôi như hoa sen nhiều lắm độ hơn vài ngàn con.

Cá đó gọi là cá Thần, chầu trước đền không đi đâu mà chẳng ai dám bắt, một sự cá đó cũng là linh dị.

Trong lúc đó Đức Thánh Mẫu lại hiển tích ở núi Sòng Sơn cũng thuộc về Thanh Hoá rồi dân thôn lại lập lên ngôi đền nữa, rất tráng lệ đến bây giờ vẫn tăng huy hơn, đền đó gọi là Đền Sòng. Đền này cách tỉnh Thanh Hoá đi ra 35 cây số.

Sự linh ứng đền Sòng cũng như Phố Cát ở tỉnh Thanh Hoá đền thờ Đức Thánh Mẫu rất nhiều, nhưng chỉ đến Phố Cát và đên Sòng rất là danh tiếng thứ nhất.

Rồi kế đến Đền Dâu và đền Rồng, Đức Thánh Mẫu giáng linh tại hai ngôi đền đó rất là hiển ứng đến hiện bấy giờ linh lại càng linh.

Từ đó về sau khôn nghi đại trứ viễn chấn linh Thanh nên cả xứ Bắc Kì gia gia phụng tự xứ xứ lập từ nhơn dân thờ tự Đức Thánh Mẫu rất là kính thành, đã cảm công đức ngài mà lại kính thương ngài như là con thương Mẹ đẻ.

Vì Ngài đã chí hiếu lại chí trinh, là một điều kính phục thiệt đáng làm gương quần Lê, nên Đức Thánh Mẫu thiên hạ tôn xưng là Mẫu Nghi Thiên Hạ . Lại rất từ bi cứu thế giúp hộ lê dân, Ngài thương dân như con Ngài đẻ ra vì thế thiên hạ đã khâm phục mà lại thương mến Ngài.

Ở Nam Định huyện Vụ Bản làng Vân có ngôi đền thờ Đức Thánh Mẫu gọi là Phủ Vân trong điện và đệ nhị đệ tam cung, ngoài hồ vọng nguyệt và có một cái đài cao rất là nguy nga.

Đền này phụng tự rất là huy hoàng, hoành phi liễn đối toàn những bậc danh thần khoa giáp để tiếng tán dương anh linh và công đức của Đức Thánh Mẫu.

Ở chính điện có một bức hoành phi treo ở chính giữa, đề bốn chữ đại tự : “ Tiên nhân cựu quán ” đó chính là cựu chỉ của Đức Thánh Mẫu, vườn hoa nhà cảnh khi xưa vẫn còn, đó là lần giáng sinh thứ nhì, lại có một toà Đền ở làng Tiên Hương gọi là đền Phủ Dầy cũng rất là nguy nga, lại có một toà nhà thờ thờ liệt vị Tiện nhân Đức Thánh Mẫu gọi là Khởi Thánh có người cháu tự tôn là trưởng họ đẻ thờ tự, các ngôi mộ Tổ, và Liệt Vị Tiên Nhân táng ở xứ La Hào.

Lại có một điện thờ Mẫu gọi là Nguyệt Du Cung, trước đền cách độ ba trăm thước tây là tôn Lăng Đức Thánh Mẫu ( tại địa phận làng Tiên Hương ) tự tôn Lăng đến ga Gôi chừng 3 cây số có ngôi chùa thờ Phật và thừ Thánh Mẫu trên núi Gôi ( Giơi Sơn ) có danh tiếng ở đó, vì thường năm đến kỳ hội Đức Thánh Mẫu là tháng ba thì làng rước Thánh Mẫu từ đề Phủ Dầy lên chùa Gôi làm lễ, rồi mới rước Thánh Mẫu về đền, Hội xong mới hoàng tạ vì thế chùa Gôi long trọng lắm.

Từ núi Gôi đi lại làng Tiên Hương, có một dáy núi dài như hình con rồng xanh, nằm trước địa phận làng làm Tiền Án. Xem qua địa thế, sơn thuỷ hữu tình thiệt là Làng Tiên mà sinh ra Thánh bây giờ làm mẹ cho quần Lê biết mấy muôn đời, đúng thật đó là Tiên Hương – Vân Cát chính là cố lý quê hương Đức Thánh Mẫu.

Thiên hạ y quang theo Đức Thánh Mẫu học đạo Ngài rất nhiều, ai ai cũng kính phục, nên ở đền Phủ Dầy có đôi liễn rằng :

“Hữu tử thành Tiên hoàn bất tử
Vô danh dưỡng tử tức như sinh”

Nghĩa là:

Có chết, thành Tiên là không chết
Vô sinh gọi mẹ ấy là sinh

Nên chúng tôi y quang với Đức Thánh Mẫu gọi là: “Tử dực quần sinh” Đức Thánh Mẫu : “Mẫu Nghi Thiên Hạ”.

Canh hoa trang

Quan điểm khác về lần giáng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh

Với truyện kể dân gian, truyện Nôm khuyết danh và tất cả các tác phẩm của Nho học chịu ảnh hưởng của Đoàn Thị Điểm, Kiều Oánh Mậu được sáng tác từ giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX đều nói về Hai lần giảng sinh của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một lần ở Vân Cát và lần sau ở đất Thiên Bản, lần thứ ba Mẫu Liễu Hạnh xuống trần với tư cách là thần tiên chứ không còn là người phàm trần nữa.

Tuy Nhiên với các tác phẩm của Nhóm Sơn Nam (nhóm nhà Nho từ Nguyễn Đình Việt, Vũ Huy Trắc, Khiếu Năng Tĩnh, Đoàn Triển, Nguyễn Xuân Thiểu, … họ ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, mà trung tâm là Nam Định) mà các tác phẩm của họ cũng ra đời cùng thời với các tác phẩm của nữ sỹ Đoàn Thị Điểm, Kiều Oanh Mẫu (thế kỷ XVIII – XX), thì lại đề cập tới ba lần giáng trần “Tam Sinh Tam Hóa” của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, trong đó lần thứ ba Mẫu Liễu Hạnh giáng trần là một cô gái.

Cụ thể như sau:

Tài liệu tại Phủ Nấp

a) Trong bản chép văn bia Phủ Nấp của cụ giáo Du (người thôn Vọng xã Đại Đồng huyện Ý Yên), có một bia với tiêu đề Quảng Cung linh từ bi kỷ. Văn bia này do ông Nguyễn Đình Việt (lúc đó là Tri huyện Đại An) soạn năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), nói về ba lần giáng sinh như sau:

– Lần thứ nhất: Truyền ngôn, tiền thân của Phạm Công ở xã Trần Xá là phó sứ có tội. Thượng để xét lòng thành cầu khẩn của ông bà Phạm Công, mới cho con gái thứ hai là công chúa Hồng Liên giáng sinh vào nhà ấy vào giờ dần ngày 6-3 niên hiệu Thiệu Bình năm đầu (1434) đặt tên huý là Tiên Nga, lớn lên tài sắc kiêm toàn, phụng dưỡng cha mẹ chọn đạo. Ngày 2-3-Quỷ Tỵ (1473) niên hiệu Hồng Đức thì hoá về trời đang tuổi 40. Dân sở tại nhớ ơn cứu bệnh giúp người nghèo, bèn lập đền thờ khỏi nhang tưởng mộ

– Lần thứ hai: Ngài giảng xuống thôn Vân Cát xã Yên Thải, vào nhà họ Lê có tên Thị Thắng, lấy chồng người cùng xã tên là Trần Duy Đào, sinh được một trai tên là Duy Nhâm. Kể từ ngày Giáp dần tháng Giáp Thìn niên hiệu Thiên Hựu năm đầu 1557 đến ngày 3-3 niên hiệu Gia Thái thứ năm (1577) vừa tuổi 21 thì mất.

– Lần thứ ba: Ngài giảng xuống Tây Mỗ Huyện Nga Sơn vào giờ dần ngày 10-10 năm Khánh Đức thứ hai 1650 tái hợp với Đào Lang sinh được một con trai tên là Cổn, đến ngày 5-2 Cảnh Trị thứ 6 (1668) trải qua 19 năm mới trở về Để Sở. Từ đó Mẫu tuy nghi du ngoạn hoặc Đông Đô hoặc Lạng Sơn, ra oai cùng sĩ tử, tác phúc với muốn dân.

Tư liệu tại Quảng Cung linh từ

Tư liệu tiếp theo là Quảng Cung linh từ phả chi viết năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781) của Vũ Huy Trác (người Lộng Điền, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Cảnh Hưng 33 – 1772, trải các chức Lễ bộ Tả Thị Lang, Quốc Tử Giám tư nghiệp, kiêm khu mật viện sự).

Tư liệu này chép chi tiết hơn, như sau:

– Lần thứ nhất: nước ta vào thời Trần, ở huyện Đông Sơn có quan phó sử Thiên Trường Phạm Như Tiền, do bất cẩn trong việc quan bị tội, đày xuống hạ giới vào nhà họ Phạm ở Đông Ba huyện Đại An, làm con thử, có tên là Đức Chinh. Do Phạm công là con thử, nên xin với cha xuống phường Trần Xả trong huyện, buôn bản tre gỗ, … rồi lấy người xóm Nhuế Duệ là Đoàn Thị Phương, hai người ở với nhau lâu chưa có con, bèn đến cầu tự ở chùa Phúc Lâm, sau sinh ra một cô gái xinh đẹp. Lúc ấy, đang giờ Dần ngày 6 tháng 3 năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), đặt tên là Tiên Nga. Lớn lên chăm chỉ học tập, thông minh khác người, nhưng không lấy chồng. Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), thân phụ mất, an táng tại cần đất phía đông nam phủ lị. Qua hai năm, thân mẫu cũng qua đời, đang ngày 20 tháng chạp năm Giáp Thân (1464), tảng tại phía trải mộ thân phụ. Năm 35 tuổi, cải táng mộ song thân trọn vẹn, rồi chu du trong hạt giúp dân. Đã đắp đê Đại Hà trên từ bên phải núi Tiên Sơn dưới đến trại Tịch Nhi (xóm Gon); làm 15 cây cầu đủ; khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu khẩn đất ven sông; giúp người bần bệnh tiền bạc; sửa chùa đền; cấp lương tiền cho các vị hương sư, khuyên họ chăm việc dạy dỗ con em học tập. Sửa chùa Sơn Trương (Ý Yên), chùa Long Sơn (Duy Tiên), chùa Thiện Thành (Đồn Xá, Bình Lục), rồi ở tại Đồn Xá chiêu dẫn tải lập làng xã đến tháng giêng năm Nhâm Thìn (1472), tháng 9 cùng năm trở về nơi ở cũ gặp thân thích cổ cựu sửa đền thờ tổ ở phía nam thôn Đồi hạ. Bà còn viết nhiều thơ ca, chẳng hạn bài có tiêu đề “Nhàn cư bách thủ”, … Tháng Giêng năm Quý Tỵ lại đi đến các nơi ngày xưa từng tới, tháng ba về nhà ở, mơ thấy Phùng vương báo cho đến hạn về Đế hương. Khi ấy là ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ (1473) thọ 40 tuổi. Sở tại đổi nơi ở cũ thành đến thờ tự tri ân.

– Lần thứ hai: giáng xuống đất xã An Thái huyện Thiên Bản, vào ngày 2 tháng 3 năm Thiên Hựu thứ nhất (1557) tại nhà họ Lê, tên là Thị Thắng sinh được một trai là Nhâm và một gái là Hoà. Đang lúc 21 tuổi, ngày 3 tháng 3 năm Gia Thái thứ 5 (1577), hết hạn cho phép, trở về linh tiêu, để lại con cho chồng là Trần Duy Đào. Có mộ để ở phần đất phía Nam xã nhà, cây cỏ bao phủ xanh tốt, bốn mùa khói nhang nghi ngút, linh dị khác thường.

– Lần thứ ba: xuống thẳng đất Tây Mỗ huyện Nga Sơn, có tên là Hoàng Thị Trinh, lấy chồng là Mai Thanh Lâm, sinh được một trai đặt tên là Thanh Cẩn. Kể từ ngày 10 tháng 10 năm Khánh Đức thứ 2 (1650), đến ngày 5 tháng 2 năm Cảnh Trị thứ 6 (1668) được 19 năm, thì trở về chốn Để hương. Sau chúa giáng bút đền ở Tây Mỗ, nói chồng mất ngày 23 tháng chạp, bà kể của chồng mất 14 tháng 8. Từ đó về sau, chúa du ngoạn tuỳ nghi ra oai giản phúc chống lại triều Lê, cự lại cùng thiên sứ, xưởng hoa văn thơ với các văn nhân đương thời. Tiên chúa đến nơi nào thì thường khuyên dân nơi đó chăm chỉ làm ăn, như Yên Mô thì trồng dâu nuôi tằm; chúa có dạy học ở Thiên Quan, khẩn đất ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An, … Khi chúa đi rồi dân nhớ ơn lập đền thờ, tạc bia đá, viết từ phả, … Các đời vua đều ban sắc tặng. Ở đền Quảng Cung có 23 đạo sắc, đạo sắc sớm nhất có niên hiệu Hoằng Đình năm đầu (1601). Người ở An Thái và Tây Mỗ đem lễ đến kinh tế từ năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), đến nay (thời điểm 1781) đã được 15 lần. Đền Quang Cung xưa có lệ quốc tế, từ niên hiệu Cảnh Hưng năm đầu (1740) trở đi, thì mỗi khi đến ngày kỵ, quan phủ Nghĩa Hưng vâng mệnh bề trên đến lễ.

Nhận xét chung các tư liệu

Như vậy tư liệu do ông Nguyễn Đình Việt và ông Vũ Huy Trác để lại đều nói về hai lần giảng đầu tiên với sự tương đồng về mặt thời gian và sự kiện so với những tư liệu của nữ sỹ Đoàn Thị Điểm và Kiều Oánh Mẫu.

Tuy nhiên trong lần giảng thứ ba của Mẫu Liễu thì các tư liệu đã không thống nhất với nhau được về mặt thời gian và cách thức. Cụ thể theo tư liệu của Nguyễn Đình Việp và Vũ Huy Trác thì lần giảng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh ứng với khoảng thời gian từ 1650 – 1668, và trong lần này Mẫu Liễu giảng là người con gái tên Hoàng Thị Trinh và sau đó tái hợp cùng Mai Thanh Lâm và có con tên là Mai Thanh Cổn. Tuy nhiên trong tư liệu của nữ sỹ Đoàn Thị Điểm và Kiều Oánh Mẫu thì lần giáng thứ ba của Mẫu Liễu lại là một vị thần tiên chứ không phải là người phàm trần, lần giảng này bắt đầu từ năm 1579. Trong khoảng thời gian Mẫu giảng lần thứ ba, tuy là thần tiên nhưng Mẫu vẫn tái hợp cùng Mai Sinh (là hậu sinh người chồng kiếp trước của Mẫu) vào năm 1609 – 1610, sau đó sinh được một người con trai.

Như vậy đã xuất nhiều quan điểm mâu thuẫn với nhau về cả mặt thời gian và cách thức trong lần giảng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh.

Trong phần sau đây tác giả xin được phân tích kỹ hơn các tài liệu trên để đưa quan điểm hợp lý nhất về lần giảng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh sao cho phù hợp với những tài liệu đã nói ở trên.

Canh hoa trang

Quan điểm của tác giả về lần giảng thứ ba của Thánh Mẫu

Như vậy hiện nay có hai quan điểm chính về lần giảng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh.

QĐ 1: Quan điểm thứ nhất cho rằng lần giáng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh là thần tiên và hiển linh ở khắp nơi chứ không phải là người phàm trần

QĐ 2: Trong khi đó quan điểm thứ hai cho rằng lần giáng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh là người phàm trần (1650 – 1668), và sau lần giảng thứ ba này Mẫu Liễu Hạnh mới hiển linh và trở thành Mẫu Nghi Thiên Hạ.

Trong hai quan điểm trên, tác giả nghiêng về quan điểm thứ nhất hơn quan điểm thứ hai vì những lý do như sau:

– Thứ nhất : nếu xét theo quan điểm Mẫu Liễu Hạnh giảng lần thứ ba là người phàm trần ứng với khoảng thời gian 1650 – 1668, sau đó Mẫu Liễu Hạnh mới hiển linh ở khắp nơi thì sẽ không hợp lý, bởi vì Mẫu Liễu Hạnh đã hiển linh trong khoảng thời gian trước cả những năm 1650. Bằng chứng thứ nhất là có những sắc phong của vua Lê đã ban cho Mẫu Liễu Hạnh với thời sớm nhất là vào đầu thế kỷ XV (những năm 1600), tức là Mẫu Liễu Hạnh đã hiển linh trước năm 1650. Bằng chứng thứ hai là Mẫu Liễu Hạnh đã hiển linh và hai lần gặp trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, hai di tích để lại đến ngày nay ứng với hai sự kiện đó chính là Đền Mẫu Đồng Đăng và Phủ Tây Hồ. Chú ý rằng Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 mất năm 1613, như vậy sự kiện Mẫu Liễu Hạnh hiển linh gặp Phùng Khắc Khoan phải trước năm 1650. Điều đó cho thấy Mẫu Liễu Hạnh đã hiển linh sớm hơn nhiều so với những năm 1650 – 1668.

– Thứ hai : Mẫu Liễu Hạnh đã hiển linh khắp nơi và được nhà vua sắc phong từ trước những năm 1650, vì vậy việc Mẫu giảng lần thử ba từ 1650 – 1668 để tái hợp lại với Mai Sinh kéo dài trong khoảng 18 năm. Trong khi đó theo quan điểm của Đoàn Thị Điểm thì khi Mẫu Liễu Hạnh lại tái hợp với Mai Sinh thì Mẫu không phải là người phàm trần mà là thần tiên, và thời gian ứng với sự kiện Mẫu Liễu Hạnh tái hợp cùng Mai Sinh chỉ kéo dài khoảng 2 năm. Mâu thuẫn này sẽ rất kho giải quyết nếu như chúng ta không chú ý đến một sự kiện như sau:

“Theo tư liệu, vào năm Tự Đức thứ 2 (1850), trong họ Hoàng thôn Tây Mỗ, có cô Thị Trinh mới qua tuổi trăng tròn, chưa lấy chồng bị ốm nặng, qua hai tuần uống thuốc không chuyển nằm trên giường thoi thóp, rồi đến tuần thứ ba thì chỉ nằm đó mà chẳng uống lấy một giọt nước. Người nhà chuẩn bị hậu sự, đến sáng ngày 10 tháng 10, một con én trắng từ đâu bay vào trong nhà, bay đi bay lại rồi đến đậu lên mình cô Thị Trinh, không bay đâu nữa. Một lát sau, không trông thấy con én, mà cô Thị Trịnh ngồi dậy kêu khát nước, uống nước xong cô khoẻ lại như cũ, rồi bỏ nhà đi vào rừng, mỗi ngày về một lần vào buổi trưa. Mấy tháng sau, cô dẫn một thư sinh về nhà, xin cha mẹ cho khu đất Đào Sơn sau nhà ở. Còn đoạn sau thì như đã viết ở trên.”

Bài thơ nói về sự tích Mẫu ở Tây Mỗ viết năm Ất Mão (1915) của Đoàn Triển (Hiệp biện Đại học sĩ, Nam Định Tổng đốc):

Bạch yến phi lại địa giảng tường,
Hoàng gia lệnh nữ sự tư chương.
Đệ tam thuỳ thức nhận da thành,
Nguyệt thập hồi dương mệnh bất phương.
Phổi dữ Mai sinh phu phụ thuận,
Kế lưu hương tử hiếu thuần cương.
Thanh châu nhất đới tồn di tích,
Tây Mỗ thiên thu nhạ chúc hương.

Tạm dịch:

Én trắng bay về đất giảng tường,
Gái Hoàng ngày ấy chuyện không thường.
Thứ ba nào biết người hay thánh,
Tháng tỷ kìa ai lại cõi dương.
Cùng với Mai sinh tâm mỹ mãn,
Còn lưu kể tử chốn gia đường.
Xứ thanh một dải còn nhiều dấu,
Tây Mỗ ngàn thu nức khỏi hương.

Qua đây tác giả mạnh dạn đề xuất một cách nhìn nhận mới về lần giảng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh để tạo ra sự thống nhất giữa quan điểm của Đoàn Thị Điểm và Kiều Oánh Mậu với quan điểm của Nguyễn Đình Việt và Vũ Huy Trắc, … như sau:

Mẫu Liễu Hạnh giáng lần thứ ba là thần tiên chứ không phải người phàm trần, Mẫu đã hiển linh ở khắp nơi và đi đến đâu Mẫu được nhân dân ở nơi đó phụng thờ, Mẫu cũng đã được nhiều đời vua sắc phong. Sự kiện Mẫu Liễu Hạnh tái hợp cùng Mai Lâm ở Thanh Hóa không phải là lần giáng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh mà chỉ là một phần trong lần giáng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh. Trong lần tái hợp cùng Mai Lâm thì Mẫu Liễu Hạnh chỉ giảng trong khoảng thời gian 2 năm từ 1666 đến 1668, chứ không phải Mẫu giáng cả 18 năm từ lúc Hoàng Thị Trinh sinh ra năm 1650 đến khi cô mất đi năm 1668. Cụ thể hơn, khi cô Hoàng Thị Trinh bị ốm nặng, người nhà chuẩn bị hậu sự, đến sáng ngày 10 tháng 10, một con én trắng từ đâu bay vào trong nhà, bay đi bay lại rồi đến đậu lên mình cô Thị Trinh, không bay đâu nữa. Một lát sau, không trông thấy con én, mà cô Thị Trịnh ngồi dậy kêu khát nước, uống nước xong cô khoẻ lại như cũ. Như vậy có thể coi lúc cô Hoàng Thị Trinh khỏe lại sau khi xuất hiện chim Én bay quanh và đậu lên cô chính là dấu mốc cho lần giáng của Mẫu Liễu Hạnh vào cô Hoàng Thị Trinh. Nói cách khác, Mẫu Liễu Hạnh đã mượn thân xác của cô Hoàng Thị Trinh để tạo tiền đề cho sự tái hợp cùng với Mai Lâm trong khoảng thời gian 2 năm.

Với quan điểm mới như trên chúng ta sẽ xóa bỏ đi được những mâu thuẫn về thuyết “tam sinh tam hóa” của Nguyễn Đình Việt và Vũ Huy Trắc, … với những chuyện kể dân gian, truyện Nôm và các tác phẩm của Nho học chịu sự ảnh hưởng của Đoàn Thị Điểm và Kiều Oánh Mậu về lần giảng thứ ba của Mẫu Liễu Hạnh.

Canh hoa trang

Các Đại Sắc Phong cho Thánh Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên

Đây là các đạo sắc phong cho Thánh Mẫu và họ Trần Lê Phủ Giầy từ thời nhà Lê cho tới nhà Nguyễn có những đạo sắc phong cách đây tới 300 năm.

Ngoài ra ở đền Quảng Cung có 23 đạo sắc, đạo sắc sớm nhất có niên hiệu Hoằng Đình năm đầu (1601), tác giả sẽ bổ sung những đạo sắc đó trong thời gian sớm nhất.

Sắc phong thứ nhất

Niên hiệu Vĩnh Khánh năm thứ 2 (ngày 10 tháng 12 năm 1730)

“Sắc Phong Đệ Nhất Liễu Hạnh”

Hiệu Viết “Mạ Vàng”

Sắc phong thứ hai

Cảnh Hưng nhị niên ngày 28 tháng 3 (1741)

Có 1 đạo Sắc Phong

Sắc phong thứ ba

Cảnh Hưng nhị niên Ngày 28 tháng 3 (1741)

Sắc phong Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa
Hiệu Viết Quế Hoa quản các bộ chủng

Sắc phong thứ tư

Cảnh Hưng năm thứ 44 ngày 16 tháng 5 (1783)

Sắc Đế Thích Thiên Đình Cẩm Tú Phương Phi quyền cai Lục Bộ

Kiêm Sơn Lâm trưởng Quản Sơn Tinh Bộ hiệu viết

“Liễu Hạnh Mạ Vàng”

Tề Gia trị Quốc hộ sỹ sắc

Phong Thiên Thượng Tiên Thần nhân gian Thánh Mẫu

Sắc phong thứ năm

Chiêu Thống nguyên niên ngày 22 tháng 3 (1786)

Tặng phong Đế Thích Thiên Đình

Hiệu viết “Liễu Hạnh Mạ Vàng”

Tề gia trị quốc hộ sỹ quyền cai.

Lục bộ kiêm trì Sơn Lâm trưởng sơn tinh bộ

Sắc phong thứ sáu

  • Chiêu Thống nhị niên ngày 22 tháng 3 (1787)

Sắc phong Đệ Tam Thánh Mẫu

“Ngọc nữ Quân Công Chúa Tiên Cung”
Hiệu Quế Hoa Công Chúa

Sắc phong Thượng Đẳng Thần

Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Công Chúa

Sắc phong thứ bẩy

Minh Mệnh nhị niên ngày 22 tháng 7 (1830)

Sắc phong Đế Thích Thiên Đình Liễu Hạnh Công Chúa

Có công hộ Quốc trị Dân

Thiên Bản huyện An Thái xã

Sắc phong thứ tám

Minh Mệnh nhị niên ngày 21 tháng 7 (1830)

Sắc phong đức Đệ Nhị Ngọc Nữ Quỳnh Cung
Duy Tiên Công Chúa

Có công Bảo Quốc trị Dân

Tặng phong Trung Đẳng Thần – Thiên Bản huyện – An Thái xã

Sắc phong thứ chín

Thiệu Trị nguyên niên ngày 22 tháng 3 (1841)

Có 1 sắc phong

Sắc phong thứ mười

Thiệu Trị tử niên ngày 22 tháng 6 (1845)

Phong Đệ Nhị Ngọc Nữ Quỳnh Cung Duy Tiên Công Chúa

Sắc phong thứ mười một

Tự Đức tam niên ngày 17 tháng 12 (1850)

Sắc phong Đế Thích Thiên Đình Liễu Hạnh Công Chúa

Tặng Phong Thượng Đẳng Thần đã có công Hộ Quốc

Bảo Ngã Lệ Dân – Thiên Bản huyện – An Thái xã

Sắc phong thứ mười hai

Tự Đức tam niên ngày 17 tháng 12 (1850)

Sắc phong Đệ Tam Ngọc Nữ Quảng Cung Quế Anh

Hộ Quốc trị Dân – Thiên Bản huyện – An Thái xã

Sắc phong thứ mười ba

Khải Định nhị niên ngày 18 tháng 3 (1917)
sự

Sắc phong Nam Định tỉnh – Vụ Bản huyện – Tiên Hương xã – Trần Lê tộc phụng

Sắc phong Đế Thích Tiên Đình Ngọc Nữ Liễu Hạnh Công Chúa

Hộ Quốc trị Dân sắc phong Thượng Đẳng Thần

Sắc phong thứ mười bốn

Khải Định cửu niên ngày 25 tháng 7 (1924)

Sắc Nam Định tinh – Vụ Bản huyện – Tiên Hương xã

Trần Lê tộc phụng sự

Sắc phong Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công Chúa

Hộ Quốc trị Dân, tặng phong Thượng Đẳng Thần

Sắc phong thứ mười năm

Khải Định cửu niên ngày 25 tháng 7 (1924)

Ðức Thánh Đệ Tam biệt hiệu: Ngọc Nữ Quảng Cung Quế Anh

Trung Đẳng Thần có công Hộ Quốc trị Dân

Sau tứ tuần đại khải sắc phong: Thượng Đẳng Thần

Canh hoa trang

Các Đền Phủ liên quan đến sự hiển linh của Mẫu

Di TíchĐịa Chỉ
Phủ Chính (Phủ Dầy)Tiên Hương, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định
Phủ Nội Tiên ĐìnhTiên Hương, Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định
Phủ Bóng Nguyệt Du CungKim Thái, Vụ Bản, Nam Định
Đền Mẫu Sòng SơnBắc Sơn, Bỉm Sơn, Thanh Hoá
Phủ Tây Hồ52 P. Đặng Thai Mai, Quảng An, Tây Hồ, Hà Nội
Đền Mẫu Đồng Đăng – Lạng Sơn.TT. Đồng Đăng, Cao Lộc, Lạng Sơn
Đền Phố Cát – Thanh HóaVân Du,Thạch Thành, Thanh Hóa
Phủ Đồi Ngang – Ninh BìnhPhú Long, Nho Quan, Ninh Bình
Đền Liễu Hạnh Công Chúa – Đèo Ngang, Quảng Bình.Quảng Đông, Quảng Trạch, Quảng Bình
Lăng Mộ Mẫu Liễu HạnhKim Thái, Vụ Bản, Nam Định
Canh hoa trang

Các bản chầu văn về Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên

Theo tìm hiểu và sưu của tác giả, hiện có 10 bản chầu văn Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên gồm

  • Vân Cát Tam Thế Thực Lục Quốc Âm
  • Thánh Mẫu Sự Tích Quốc Âm Ca.
  • Địa Tiên Thánh Mẫu Văn
  • Cảnh Thư Đường Văn
  • Văn Mẫu Phủ Giày
  • Văn Mẫu Sòng
  • Thánh Mẫu Ca Đàn Văn
  • Giáng Tiên Kỳ Lục Văn
  • Vân Hương Thánh Mẫu sự tích văn
  • Hòa Diệu Đại Vương Văn
Canh hoa trang

Bản văn Giáng Tiên Kỳ Lục Văn

Sơn Nam Vân Cát giáng tiên hương
Ngọc nữ Quỳnh Hoa sắc hạ phàm
Tích hiển Tây Hồ thi hoạ khách
Danh lam Sòng Lĩnh chốn uy dương
Triệu hồi tử phủ loan dư hạc
Ảnh nguyệt quỳnh lâu khúc đoạn trường
Bất tử vang danh thiên hạ Mẫu
Cứu dân hộ quốc thọ vô cương

Xem chi tiết các Bản văn Mẫu đệ Nhị Địa Tiên

con chim phượng

Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Thánh Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên – Liễu Hạnh Công Chúa.

Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:

  • Sách Tín Ngưỡng Tam Tứ Phủ và Thờ Thánh ở Việt Nam – Biên soạn TS Bùi Hùng Thắng
  • Sách Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Tứ Phủ chốn thiêng nơi cõi thực – TS Trần Quang Dũng
  • Sách Vân Hương Thánh Mẫu Tam Vị Đại Từ – Tôn. ( Kinh Ấn Tống – 1964)
  • Các tài liệu từ Internet

Xin trân trọng cám ơn!

Hoa sen

Tham khảo thêm

Xem thêm thần tích Tứ Phủ Thánh Mẫu