Mẫu Thiên Y A Na : Tìm hiểu chi tiết về nữ thần Poh Nagar

Truyền thuyết Mẫu Thiên Y A Na

Bà Thiên Y A Na hay bà Chúa Ngọc, người Chiêm Thành (gọi tắt là người Chiêm hay Chăm), gọi là nữ thần Poh Nagar (hay Pô Ino Nogar), tuy chỉ là một vị thần theo truyền thuyết, nhưng đã được cư dân Việt và Chăm thờ phụng, và đã được nhà Nguyễn xếp vào bậc thượng đẳng thần.

Theo người Chăm

Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy bảo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước bà.

Khi bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…

Nhiều phép thuật, bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép, đó là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih (cả hai được người dân vùng Phan Rang tôn thờ) và Pô Bia Tikuk. (được người dân Phan Thiết tôn thờ).

Theo Người Việt

Đến khi đất Kauthara thuộc về người Việt, thì nữ thần Poh Nagar cũng trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi là Thiên Y A Na và sự tích của bà cũng được Việt hóa.

Tuy những lời kể có đôi nét khác nhau, nhưng đại thể như sau: Xưa kia tại núi Đại An (nay là Đại Điền), có hai vợ chồng tiều phu già không con, trồng rẫy dưa. Dưa chín thường bị hái trộm. Rình rập, một đêm ông lão bắt được thủ phạm. Khi biết được kẻ hái là một cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn là tiên nữ, vì lí do nào đó, phải giáng trần!

Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo thành một hòn giả sơn (hòn non bộ). Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào bờ biển nước Trung Hoa.

Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy, nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, Thái tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì chàng bắt được. Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Trị và một gái đặt tên là Quí.

Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ phụng hai ông bà. Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải… để người dân quê mình biết cách mưu sinh.

Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.

Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay…và toàn bộ những người đến từ phương Bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của họ cũng bị đá đánh chìm hết…

Theo lời người xưa truyền lại, thì những cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể. Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại thành bài kí, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).

Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, đề có một sự tích nữa, tóm gọn như sau:

Một Thái tử Trung Hoa qua Việt Nam tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông, tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Ri). Do được báo mộng, chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ trầm hóa đá.

Lại truyền tụng thêm một câu chuyện khác, theo nhà văn Sơn Nam, đó là ngày xưa “có một phú thương người Hoa thử mua hoặc đánh tráo khúc trầm, đưa lên ghe chở về Tàu, thì giông tổ liền nổi lên, khiến thuyền phải quày về chỗ cũ”.

Tuy nhiên, hai sự tích ghi sau, ít được phổ biến.

Nhận xét truyền thuyết Mẫu Thiên Y A Na

Khi Phan Thanh Giản làm Kinh lược Tả kỳ, coi Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, ông đã cho khắc sự tích của Thiên Y A Na lên bia ký. Theo nhà văn Sơn Nam, thì ông Giản đã cho rằng “giai thoại của bà Thiên Y là kì quái, là phi lí. Thần tiên mà giận hờn vụn vặt bỏ quê xứ, qua Trung Hoa, rồi vô cớ lại lui về Khánh Hòa. Qui thần mà sao có những hành động thiếu tự chủ?”. Nhưng theo nhà văn, thì “người dân Việt không thắc mắc chi tiết ấy. Họ chỉ muốn hòa hợp thần thánh cố hữu từ Thanh Hóa với thần thánh địa phương, để cầu phước, nhớ ơn người khuất mặt. Yên ổn về tâm trí thì mới lạc quan mà làm ruộng nước, lên rừng tìm trầm, hái củi, xuống biển đánh cá. Xứ Nha Trang, lộc nước ơn trời, dồi dào hơn so với khu vực từ Huế trở ra Quảng Trị, Quảng Bình. Và tháp Bà Nha Trang từng được giới khảo cổ Pháp khẳng định là đền nữ thần Bà La Môn của vương quốc Chăm…”.

Sau khi giới thiệu sự tích bà Thiên Y A Na, thi sĩ Quách Tấn viết: Sự tích nghe hoang đường nhưng lý thú, và có ý nghĩa. Bởi một khi dân tộc mình bị người ngoại bang dày xéo, bà đã biết dẹp bỏ tình riêng, ra tay trừ diệt kẻ bạo ngược. Vậy Hòn Chữ ở giữa sông Cái, mà người dân địa phương bảo rằng đó là đá của bà Thiên Y A Na, là dấu hiệu biểu dương tinh thần dân tộc của nhân dân Khánh Hòa …

Xét khía cạnh khác, trong sách Kiến thức du lịch có đoạn: Trong truyện dân gian, giữa người Việt và người Chăm có những điểm giống nhau về chủ đề, cấu trúc, hình tượng và ý nghĩa, mà truyện bà Thiên Y A Na là một ví dụ. Đó là kết quả của sự giao lưu, trao đổi, bồi đắp và hòa hợp văn hóa của hai dân tộc.

Vua Đồng Khánh hạ mình xung thần ở điện Hòn Chén

Năm 1885, sau khi lên ngôi thay Vua Hàm Nghi, Vua Đồng Khánh đã cho tu sửa lại điện Hòn Chén và… xưng thần dưới trưởng của Thiên Y A Na. Đây là một sự kiện chưa bao giờ có trong trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, bởi lâu nay, chỉ có vua – người đứng trên bách thần để phong thần chứ chưa hề có ai đi “hạ mình” để xưng thần. Và việc “hạ mình” này gắn liền với một giai đoạn bi thương của đất nước…

Đây là thời kỳ thực dân Pháp lấy lý do triều đình nhà Nguyễn sát hại những giáo sĩ và giáo dân, đã mang quân vào xâm chiếm nước ta nhằm thực hiện mưu đồ chính là chiếm đất, chiếm dân, mở rộng thị trường, khai thác tài nguyên, xoá bỏ chế độ quân chủ chuyên chế của triều đình nhà Nguyễn. Hành động xâm lược của thực dân Pháp đã làm phá vỡ ý thức hệ Nho giáo của triều đình Nguyễn, một lần nữa đẩy đất nước ta vào những bi kịch xã hội hết sức nặng nề, đời sống của dân chúng trở nên khốn cùng hơn bao giờ hết. Tình hình này, ở một mức độ nào đó cũng đã tạo điều kiện cho đạo Giáo phát triển và tục thờ Mẫu từ đó cũng được xem là cứu cánh tốt nhất cho không chỉ là một số hoàng thân quốc thích mà còn là tầng lớp quan lại, binh sĩ và kể cả người dân lao động nghèo khó. Tất cả đều trong tâm trạng cần được che chở, cứu rỗi và con người tìm đến Mẫu lúc này để gửi gắm niềm tin của mình trước sự nguy hiểm bấp bênh giữa cuộc sống và cái chết, giữa cái được và cái mất…

Đứng trước những bi kịch của triều đại và bản thân, nhà vua gần như đã gửi gắm linh hồn của mình cho Mẫu. Trước đó, từ năm 1883 đến năm 1885, khi còn là hoàng tử, vì gặp một giai đoạn éo le của lịch sử triều Nguyễn, Vua Đồng Khánh chờ đợi mãi vẫn chưa được lên nối ngôi cha nuôi là Vua Tự Đức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên điện Hòn Chén cầu đảo và hỏi Thánh mẫu Thiên Y A Na xem mình có làm vua được không?

Theo nhiều tài liệu thì Thiên Y A Na đã cho hoàng tử biết ngày đăng quang và cũng cho biết ông chỉ ở ngôi được 3 năm rồi mất. Quả nhiên lời tiên đoán của nữ thần trên điện Hòn Chén thật đúng, bởi vậy sau khi lên ngôi vào năm 1886, Vua Đồng Khánh liền cho xây lại đền này một cách khang trang, làm thêm nhiều đồ khí tự để thờ và đổi tên ngôi đền là Huệ Nam điện để tỏ lòng biết ơn Thánh mẫu. Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Sự kiện này đã được ghi lại trong Đại Nam thực lục: “Vua khi còn ẩn náu thường chơi xem núi ở đây. Mỗi khi đến cầu khẩn, phần nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua phê bảo rằng: Đền Ngọc Trản thực là núi Tiên Nữ, linh sơn sáng đẹp muốn đời, trông rõ là hình thế như con sư tử uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền ấy nhờ được linh khi đắc nhất, cứu người độ đời, giúp cho phúc lợi hàng muôn, giúp dân giữ nước. Vậy cho đổi đền ấy làm điện Huệ Nam để biểu hiện ơn nước một phần trong muôn phần”.

Từ đó Vua Đồng Khánh rất tin tưởng về sự linh ứng của nữ thần điện Hòn Chén; gặp việc gì khó xử ông thường đến đây để cầu đảo và dường như việc gì cũng được như ý nên Vua Đồng Khánh đã phê rằng: “Điện Hòn Chén là một đền linh diệu thiên cổ, thế núi trông thật giống hình con sư tử uống nước dưới sông, quả là chân cảnh thần tiên, cứu đời, giúp người nhiều lắm”.

Tháng 6, 7 năm 1886 tại Huế không có một giọt mưa, vua bèn sai các quan ở Phủ Thừa Thiên lập đàn cầu đảo khắp các đền trong kinh thành nhưng trời vẫn không mưa, đến khi lên cầu đảo tại đền Hòn Chén, chỉ trong một buổi sáng thôi mà trời đổ mưa tầm tã, ai cũng cho là linh ứng. Cũng chính vì sự linh ứng ấy mà Vua Đồng Khánh rất lo sợ trước lời tiên đoán của nữ thần. Và rồi không cãi được mệnh trời, năm 1888, ông thọ bệnh, đau liên tục, các ngự y bỏ tay, đến năm 1889 thì ông mất, đúng sau 3 năm ngồi trên ngai vàng.

Đặc biệt, từ một người đứng trên bách thần để phong thần, Vua Đồng Khánh đã hoà nhập mình vào với thế giới thiêng liêng, đồng hoá giữa con người thật với thần linh khi tự nguyện biến mình thành một trong thất thánh ở điện Huệ Nam. Không những thế, vai vế của ông cũng chỉ là em út trong 7 vị đó.

Đây là một việc làm mà xưa nay chưa xảy ra đối với các vua chúa của Việt Nam. Cùng với việc phong thánh cho mình, Đồng Khánh đã sắc phong thượng đẳng thần cho Thánh mẫu Thiên Y A Na, và trung đẳng thần cho những vị khác. Di ảnh Vua Đồng Khánh cũng được thờ tại điện kể từ ngày xưng thần cho đến bây giờ.

Về việc thiên tử – con trời, nay lại tự xưng là một vị thần dưới “trướng” của Thánh Mẫu, thuộc chuyện xưa nay hiếm này, tập san Hội nghiên cứu Đông Dương (BSET), xuất bản năm 1969, phần viết của GS. Lê Văn Toàn đã có một nhận định rất thủ vị, đại ý, đó là biểu hiện của sự hoang mang khi vua không còn làm chủ được đất nước.

Khi còn là hoàng tử, vì gặp một giai đoạn éo le của lịch sử triều Nguyễn, Vua Đồng Khánh chờ đợi mãi vẫn chưa được lên nối ngôi cha nuôi là Vua Tự Đức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên điện Hòn Chén cầu đảo và hỏi Thánh mẫu Thiên Y A Na xem mình có làm vua được không? Theo nhiều tài liệu thì Thiên Y A Na đã cho hoàng tử biết ngày đăng quang và cũng cho biết ông chỉ ở ngôi được 3 năm rồi mất. Thật kinh ngạc, lời tiên đoán hoàn toàn đúng.

Tượng nữ thần Poh Nagar

Trong kalan Po Nagar (tức Tháp Bà), tượng nữ thần Poh Nagar (tức Thiên Y A Na) được đặt trong chính điện, trên một cái bệ có vòi luôn quay về hướng Bắc gọi là Snana-droni. Bệ này dùng để thoát nước khi làm lễ tắm tượng, vì dưới chân bệ có một đường thoát nước bằng đá gọi là Soma-sutre xuyên qua tường tháp ra ngoài.

Nữ thần ngồi xếp bằng trên đài sen hai lớp cánh. Sau lưng tượng là một phiến đá lớn hình lá đề chạm kĩ cả hai mặt. GS. Trần Quốc Vượng cho biết, tuy là tượng nữ thần Mẹ của vương quốc, nhưng vì đặt trên một bệ Yoni nên tượng được thể hiện với dạng Uma (tức vừa là vợ & vừa là một cách thể hiện của thần Civa). Với bốn đôi tay cầm các linh vật khác nhau (bên trong cái Uma) và đôi tay thứ 5 để xuôi trên đầu gối, bàn tay trái úp, bàn tay phải mở rộng, vuông góc với cổ tay trong một thế mudra: an ủi – ban phát. Vậy, có thể hiểu toàn bộ đài thờ này tượng trưng cho cặp Linga – Yoni. Điều đáng lưu ý nữa là tượng nữ thần được thể hiện rất khác với các Uma trinh nữ. Vì tượng có bộ ngực lớn, căng, nhưng hơi sệ; trên làn da bụng có những nếp nhăn của một người nữ đã nhiều lần sinh nở. Rất tiếc, hiện nay pho tượng đã được khoác xiêm y, mũ miện sặc sỡ, làm che khuất những đường nét và vóc dáng tràn trề sinh lạc mà mềm mại, dịu dàng của Bà Mẹ xứ sở.

Thờ phụng và ảnh hưởng

Tín ngưỡng thờ bà Thiên Y A Na được bắt nguồn từ tục thờ bà Ponagar của người Chăm. Hay nói đúng hơn, những người Việt đến định cư ở đất này đã Việt hóa tục thờ Bà Mẹ Xứ Sở của người Chăm bằng truyền thuyết về bà Thiên Y A Na giáng trần tại núi Đại An và hiển thánh ở Tháp Bà – Nha Trang.

Chúa Xứ Thánh mẫu hay Chúa Xứ Nguyên Nhung là thần phù hộ nông dân trong một ấp. Nguồn gốc là vị thần này là Uma – tức nữ thần Bảo Tồn của đạo Bà La môn tại Ấn Độ. Nữ thần Uma được dân tộc Chăm biến thành Pô nagar – bà Mẹ xứ sở; được người Việt biến thành Ngung Mang nương – là nữ thần phù hộ người đi khai hoang. Từ miền Trung, Po Nagar được đồng nhất thành Thiên Y A na – bà Chúa Ngọc Thành phố, tục gọi là bà Chúa Ngọc, bà Chúa Xứ hoặc Chúa Xứ Thánh mẫu. Nhà Nguyễn xếp Thiên Y A na Diễn Ngọc phi vào bậc thượng đẳng thần…Từ đó, khi khai hoang lập xong một ấp thì lưu dân xây dựng ngôi miếu thờ Chúa Xứ Thánh mẫu. Do vậy, ở Tiền Giang có hàng trăm ngôi miếu thờ, đa số tập trung ở vùng Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành, Chợ Gạo…

Bà Chúa Ngọc nương nương, hay bà Hồng, cô Hồng ở Nam Bộ, bắt nguồn từ Bà Mẹ xứ sở của người Chăm. Bởi Thiên YA Na ở miền Trung, được nhà Nguyễn tiếp nhận, phong là “Hồng nhân phổ tế linh ứng thượng đẳng thần.” Và Bà Đen ở Tây Ninh, Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ rõ ràng cũng là sự tiếp nối của bà Thiên Y A Na. Bằng cớ, là tục thờ Bà với nhị vị công tử, gọi là cậu Tài (truyền thuyết là Tri), cậu Qui (nói trại là cậu Chài, cậu Quý). So với giai thoại, thì hai con Bà đều thuộc nam giới.

Nghi thức hầu bóng

Việc thờ cúng Thiên Y A Na có nhiều yếu tố tương tự tục thờ Mẫu ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam, có xen lẫn với hiện tượng cầu đồng, hát chầu văn…và đối với người bình dân, ít ai nghĩ đây là một vị thần có nguồn gốc Chămpa. Ở các miếu Bà, mặc dù bên trong miếu có thờ một tượng thần Chămpa, nhưng các truyền thuyết đi kèm thường miêu tả như là nhân thần Việt.

Văn chầu tiên YaNa

Nghìn thu nước biếc non xanh
Tục truyền có thánh hiển linh hạ trần
Thánh xưa hai chữ tôn thân
Lọt ra lòng mẹ trước cần tạo con

Thánh xưa ân nghĩa vuông tròn
Trời nam biển bắc tiếng còn như vang
Các lệ lần giở quyền vàng
Quốc âm kể lại mấy hàng chép ghi

Cõi Nam có đức Thiên Ya Na
Dấu thiêng thuở trước truyện kia rành rành
Đại an núi Chúa giáng sinh lạ lung
Phẩm tiên vốn ở thiên đình

Giang sơn riêng một Tiều ông
ở ăn góc núi vun trồng ruộng dưa
thường ngày bông trái có thừa
vì ai ngắt hái trái dưa bỗng còi

Tiều ông đêm lượm rình coi
Nhởn nhơ bóng nguyệt bồi hồi áng mây
Người đâu bỗng xuống chốn này
Phẩm dành bậc nhất tác tẩy ngoài mươi

Ôm dưa đương giỡn đương cười
Tiều ông gần hỏi: Chứ người nào đây?
Con ai tác hãy thơ ngây
“Nam mô di phật” con thầy thầy nuôi

Tấm lòng yêu dấu chẳng nguôi
Trẻ qua già cậy lần hồi mai sau
Ít lâu gặp tiết mưa rào
Lòng tiên phút nhớ động đào ngày xưa

Đình hoa xây đã sớm trưa
Non kia cảnh nọ dây dưa mấy trùng
Tiều ông ngó chẳng thấy ưng
Nổi cơn la giận tưng bừng một khi

Tiểu còn đương nghĩ đương suy
Bỗng đâu nước lụt cội kỳ trôi qua
Trời đưa một chiếc tiên xà
Cho người tiên cưỡi qua ra vời

Mênh mông dưới nước trên trời
Vượt sang bể bắc gần nơi Yên thành
Tiếng thơm đồn dậy xung quanh
Xa gần đưa tới phụng thỉnh đem về

Trơ như đả nặng như chì
Trăm quân xúm kéo từ từ chẳng lay
Thảy đều ngơ mặt khoanh tay
Ở trong vật ấy chẳng hay có thần

Một mai thái tử nghe tin
Dạo qua xem thử nhân duyên thế nào
Xuống xe liền néo tay vào
Cột kỳ cất nổi cớ sao lạ thường

Người phu thường, bửu phi thường
Duyên kia đã định dễ nhường cho ai
Rước về đặt chốn các đài
Khi hôm trăng rọi khi mai gió nhuần

Cung xanh tuổi tác đương xuân
Cầu Ô còn đợi mây Ngân bấy chầy
Có khi dạo cảnh nhìn cây
Bóng trăng chấp chới làm mây rập rờn

Hương trời sắc nước nào hơn
Bỗng đâu hóa mất như cơn giấc hòe
Hương thừa thấp thoảng còn nghe
Đương khi gặp gỡ ai dè sắc không

Hôm sau gió mát trăng trong
Nhìn cây lại thấy Tiên Dung ra vào
Mười phần cốt cách thanh cao
May thay gặp bạn động vào thiên thai

Đã lòng đoái tới cơ đài
Nhân duyên đầu tá giãi bày thử nghe
Bây giờ nước tỏ niềm tê
Rừng xanh ngỏ nguyện trước sau

Hòa mừng hòa sợ vào tâu thềm rồng
Trên nghe nói sự lạ lùng
Lệnh truyền xét xử cát hung đường nào
Khi nên trời cũng khéo chiều
Trên nghe nói sự lạ lùng
Lệnh truyền xét xử cát hung đường nào
Khi nên trời cũng khéo chiều
Tìm ra quẻ tốt ứng vào duyên hay
Truyền cho làm lễ chọn ngày
Cầu xây Ô thước duyên vầy phượng loan
Sắt cầm dìu dặt tiếng đàn
Trước sân mừng thấy quế lan sánh bầy
Song song gái quế trai tài
Xuân xanh sớm nở một cây đội nhành
Dẫu rằng gá nghĩa cung xanh

Quê xưa cảnh cũ ơn tình còn vương
Lạ gì Tiên tích dị thường
Xa đường nhân quả lánh đường phiền hoa
Cội Kỳ sẵn có bởi nhà

Đem hai Tiên tử biến ra ẩn vào
Sóng dồi gió dạt biết bao
Biển xanh một dải cù lao mấy trùng
Nước non xanh biếc một vùng

Đại An đâu đó xa trông mịt mờ
Cù huân thoắt đã tới bờ
Gặp ai già cả đợi chờ hỏi han
Hỏi tiều tiều đã úa tàn bấy lâu

Rừng dưa man mác đầu đầu
Chạnh lòng ân nặng nghĩa sâu chưa đền
Khói hương may hãy còn nên
Cảm lòng tiểu lão cất đền thờ chung

Phương dân buổi ấy người đông
Ăn làm lề lối còn không tỏ tường
Chúa tiên lại mở lòng thương
Dạy phương sinh lý tìm đường lễ nghi

Đất rừng voi cọp thiếu chi
Đón ngăn đủ phép hô trì dành yên
Đoạn rồi tiên lại về tiên
Lên non tạc tượng để miền nhân gian

Phút đầu giá hạc xe loan
Giữa ban ngày đã băng ngàn lên mây
Cõi Nam cảm mến đức dày
Mây tuôn nước chảy sầu này khôn nguôi
Từ ngày trâm gãy bình rơi
Khuôn dung vắng hắn tăm hơi ả Hằng
Nhớ lời tỏ vẻ dưới trăng
Cung thuyền dục đã để chừng vượt sang
Quân kia nóng này bàng hoàng
Đốt tan mấy xóm mấy làng gần xa
Lại không kiêng đến tượng bà
Từ bi cho mấy cũng là khó dung

Nổi cơn sóng gió đùng đùng
Làm cho họ đắm xong một lần
Giữ dòng cột đá khôn vần
Dấu thiêng còn đó uy thần còn đây

Khi đỉnh núi khi trên mây
Khi lên voi cưỡi khi dầy cá bơi
Hòn Cù Hòn Én dạo chơi
Sấm ran ba tiếng bóng ngời giữa không

Oai linh hiển hách lạ lùng
Gió tiên mây phật cảm thông rất mầu
Phương dân mừng đội ơn sâu
Cùng nhau xây tháp dựng lầu nguy nga

Giữa xây một tháp thờ Bà
Kề bên tả hữu dựng một tòa thờ Ông
Hai bên bốn tháp công đồng
Thờ Cô thờ Cậu thờ Ông Bà tiều phu

Giữa dòng bia đá còn nêu
Dấu xưa khoa đấu khôn điều giải uy
Bia đá mà cảnh cũng kỳ
Trái cây ăn được đem đi thì dừng

Hai bên bốn tháp lừng lừng
Năm hòn lổ nhổ như giăng trước tòa
Kìa Hòn Én nọ Hòn Gà
Hòn Lớn Hòn Bé với là Hòn Bông

Tả biên có mũi cây Sung
Hữu biên có núi mũi Ông chầu vào
Đêm ngày sóng vô lao xao
Đàn ve quyến gió thanh tao tứ mùa
Có Viên Kiệu có Phượng Hồ
Có lèn Ngũ Nhạc có đồ Bát Tiên
Thường năm tứ quý Tam nguyên
Hương thơm đèn rạng dâng lên lễ thường
Kiệu ngai tàn quạt rõ ràng
Kim Đồng Ngọc Nữ hai hàng hầu trong
Này tên này nỏ này cung
Này đồng nữ múa này đồng nam ca

Tôn thần chẳng những người ta
Thượng cầm hạ thú cũng là đua nhau
Cọp hùm đâu cũng cúi đầu
Cá dâng dưới nước voi chầu trên non

Nghìn thu di sản vẫn còn
Còn trời còn nước còn non còn dài
Sử xanh chói choi khôn sai
Giúp vua dẹp giặc, ra tài làm mưa

Qua quan này nhớ thuở xưa
Sứ thần Chân Lạp phải đưa mình hầu
Diễn sơn này nhớ thuở dâu
Trung quân bắt cọp khẩn cầu cũng linh

Có khi đèo Cả hiện hình
Có khi Tầm hới hiến linh hạ màu
Khắp trong dân chúng đâu đâu
Giúp người chẳng quản khấu cầu tự nhiên

Thần Kinh phong cảnh thiên nhiên
Gần làng Cát Hải có đền Huệ Nam
Quốc sơ mới dựng linh am
Đến năm Minh Mạng thập tam sửa dần

Đền thiên chúa, miếu thủy thần
Ngạt ngào hương khói ngàn xuân đến giờ
Hàm long điện tả linh tòa
Cảnh nào in cảnh tiên cư lạ thường

Nhìn ra trước mặt sông Hương
Dựa vào Hòn Chén lại càng thanh tao
Nước trong như suối động đào
Cây xanh như vẽ cù lao Tam thần
Núi xanh nước biếc mười phần
Thông reo chim hót họa vần sinh ca
Vực sâu trạnh lớn nỗi ra
Ở thần linh đó ấy Hà Bá chăng
E khi chầu chực khôn lường
Đem đỗ thủy phủ lên mừng cõi tiên
Nghìn thu non nước thiên nhiên
Thiên Ya Na Thánh Mẫu, lưu truyền sử xanh

Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Mẫu Thiên Y A Na

Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:

  • Sách Tín Ngưỡng Tam Tứ Phủ và Thờ Thánh ở Việt Nam – Biên soạn TS Bùi Hùng Thắng
  • https://laodong.vn/archived/chuyen-ly-ky-chi-co-o-noi-thanh-mau-giang-tran-682597.ldo
  • Nhacdantoc.net
  • Các nguồn tài liệu từ Internet

Xin trân trọng cám ơn!

Tham khảo thêm

Xem thêm thần tích Hệ Thống Mẫu Thần Phối Thờ Cùng Tứ Phủ: