Đình Kim Mã thờ Bố Cái Đại Vương, Linh Lang Đại Vương và quan thái giám Hoàng Phúc Trung.
Đình Kim Mã, một trong Thập Tam Trại (13 trại) truyền thống, đã được thành lập từ thế kỷ 11 ở phía tây của kinh thành Thăng Long. Trong thời kỳ Lý – Trần, đất của làng Kim Mã được sử dụng để nuôi ngựa cho Hoàng cung, vì vậy còn được gọi là Tầu Mã hay Mã Trại. Một số tư liệu cổ cũng ghi nhận rằng đình Kim Mã đã được xây dựng từ lâu như được ghi trên các bia trùng tu vào niên hiệu Tự Đức 28 (năm 1875) và Khải Định (1925).
Trong đình, có ba vị thần được thờ là Bố Cái Đại Vương, Linh Lang Đại Vương và quan thái giám Hoàng Phúc Trung. Các vị thần này đều liên quan đến những sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra trong khu vực này.
Bố Cái Đại Vương, còn được biết đến với tên Phùng Hưng, sinh ngày 25 tháng 11 âm lịch năm Canh Tý (tức ngày 5-1-761), trong một gia đình đã từ đời này qua đời khác đảm nhận vai trò Hào trưởng ở Đường Lâm, Ba Vì, Sơn Tây.
Trong khoảng thời gian từ năm 766 đến 779, khi quan chính của nhà Đường tại Giao Châu là Cao Chính Bình thi hành chính sách tàn bạo và bóc lột tàn nhẫn, khiến người dân tức giận. Theo truyền thuyết, Phùng Hưng lớn lên với sức khỏe phi thường, có thể nổi trâu, đánh hổ, và vượt sông bằng thuyền nặng hàng chục dặm, đạt được lòng tin của người dân trong khu vực. Ông và hai người em trai là Phùng Hải và Phùng Dĩnh đã khởi binh và nhanh chóng thu hút hàng vạn quân sĩ. Cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm, và vào năm Ất Hợi (795), Phùng Hưng đánh tan quân xâm lược và trở thành người cầm quyền trong vòng 7 năm.
Ông qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (802), và con trai của ông, Phùng An, kế nhiệm ngai vàng, tôn ông là Bố Cái Đại Vương và xây dựng lăng mộ tại phía tây của thành Tống Bình.
Theo truyền thuyết, Linh Lang Đại Vương được cho là hoàng tử, con trai thứ tư của vua Lý Thánh Tông và bà cung phi Cảo Nương. Một lần, khi Cảo Nương đang tắm ở Hồ Tây, bị một con rồng quấn lấy và sau đó mang thai và sinh ra Linh Lang. Khi Linh Lang trưởng thành, trong thời kỳ xâm lược của quân Tống, ông đã xin vua cha cấp một cỗ voi và một cây cờ hồng để đi dẹp giặc. Linh Lang sử dụng cờ lệnh, khiến con voi quỳ xuống và sau đó tiến vào trận địa. Mỗi khi Linh Lang di chuyển cờ lệnh, giặc Tống đều tan tác theo. Với những chiến thắng đầy vang dội, vua cha mong muốn nhường ngôi cho Linh Lang, nhưng ông từ chối và chỉ muốn sống một cuộc đời giản dị. Không lâu sau, Linh Lang mắc bệnh và qua đời. Sau khi Linh Lang qua đời, ông đã biến thành một con rồng và trở về Hồ Tây, biến mất.
Vua thương tiếc ông và lập đền thờ tại nơi Linh Lang được thần hóa và phong thần là Linh Lang Đại Vương. Linh Lang Đại Vương được tôn là vị thần trấn giữ, bảo vệ phía tây kinh thành Thăng Long. Gần đây, các nhà sử học cho rằng Linh Lang có thể là hình ảnh được thần linh hoá của Hoàng tử Hoàng Chân – người đã hy sinh dũng cảm trong cuộc kháng chiến chống lại quân Tống tại bờ sông Như Nguyệt vào năm 1076.
Quan thái giám Hoàng Phúc Trung, hay còn được gọi là Quý Công, sinh ngày 13 tháng 1 năm Bính Dần (1026) tại làng Lệ Mật, huyện Gia Lâm. Ông gia nhập cung vào năm 16 tuổi và trở thành một quan thái giám. Trong một lần đi trên sông Đuống, thuyền của công chúa, con gái vua Lý Thái Tông (1028-1054), đã đắm, và dù nhiều người đã lặn xuống nhưng không tìm thấy xác công chúa. Quan Phúc Trung đã tự nguyện tìm kiếm và thành công giải cứu công chúa. Vì sự cứu nguy này, vua đã phong ông làm “Thái giám nội thị tự khanh” và tặng cho ông những phần thưởng bằng vàng, bạc và lụa. Tuy nhiên, ông từ chối nhận và chỉ yêu cầu vua cho phép người dân ở Lệ Mật được di dân đến vùng đất phía tây kinh thành và thành lập 13 làng, trong đó có làng Kim Mã.
Vào ngày 10 tháng 10 năm Kỷ Hợi (1119) trong thời đại của vua Lý Nhân Tông, Quan Phúc Trung mắc bệnh và qua đời tại kinh đô, thọ 93 tuổi. Với những đóng góp lớn lao của mình, ông được nhà vua công nhận và lập đền thờ tại nhiều địa điểm khác nhau. Ông được phong sắc phong là “Thành hoàng Thái giám Linh Chương Đại Vương, thượng đẳng phúc thần”.
Đình đã trải qua sự phá hủy từ quân đội Pháp và sau đó được sử dụng làm trụ sở UBND phường trước khi trả lại cho nhân dân để xây dựng lại. Trong quá trình quá trình đô thị hóa, diện tích của khu đình đã giảm đi đáng kể, chỉ còn đủ chỗ cho sân gạch, nhà tả hữu vu và tòa đại đình. Sân rộng trước cổng chính hiện nay được sử dụng để chơi bóng chuyền, cầu lông và bóng bàn.
Khu vực xung quanh đình đã trở thành một khu đô thị cao tầng, các cây cổ thụ hai bên đường đã bị chặt hạ và hướng nhìn từ đình về phía nam bị che khuất. Bên trái của cổng chính, trụ cổng cũ được xây dựng bởi hai gia tộc trong làng là họ Lê và Nguyễn Xuân. Trên đỉnh và trên thân trụ được trang trí với các hình ảnh chim phượng, tứ linh và hoa lá.
Ở phía trước và phía sau hai trụ cổng này, có các câu đối tán dương công đức của vị thánh làng là Bố cái đại vương, người gốc Đường Lâm:
Kim Mã hiếu trung tồn sử sách
Đường Lâm nghĩa dũng tráng sơn hà.
Sân sau nghi môn khá hẹp với các dãy tả, hữu vu nhỏ ở hai bên. Toà đại đình 5 gian được xây theo hình chữ nhật, ở hàng hiên có các cột đắp câu đối. Trên đỉnh nóc đình có đôi rồng chầu mặt nguyệt. Trong đình, phía sát tường cuối hậu cung có xây bệ, trên đặt long ngai thành hoàng làng. Bộ phận này được trang trí bằng một cửa võng từ thế kỷ 19.
Hiện tại, đình Kim Mã còn lưu giữ được một sắc phong Phùng Hưng của vua Quang Trung, một sập thờ kiểu chân quỳ dạ cá chạm trổ công phu hiếm thấy và 4 bia đá nói về các lần trùng tu. Đáng lưu ý bài văn “Trùng tu nội đình bi kí” có giá trị tư liệu lịch sử do nhà nho Lê Đình Diên tự Cúc Hiên soạn và dựng bia năm 1875, ghi chép về sự tích Phùng Hưng và làng Kim Mã. Nội dung bài văn đã được dịch và in trong sách “Lịch sử văn bia Hà Nội”.
Các đình khác tại Quận Ba Đình