Đình Giảng Võ thờ Bà Chúa Kho – Lý Châu Nương, một nữ tướng thời Trần. Đền ở địa chỉ ngõ 612 La Thành, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội.
Làng Giảng Võ trước đây thuộc phường Võ Trại, là một khu vực từng có kho trại quân đội và trường võ trong quá khứ. Đình làng được xây dựng từ thế kỷ 15 và được dùng để thờ bà Lý Châu Nương, còn được gọi là Bà Chúa Kho, một nữ tướng được vua Trần bổ nhiệm quản lý kho lương cho quân đội.
Theo thần phả trong đình, Lý Thị Châu, hay còn gọi là Lý Châu Nương, sinh ngày 12 tháng 2 âm lịch, là con ông Lê Quỳnh. Khi còn nhỏ, bà sống ở quê mẹ, thuộc phường Võ Trại, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, kinh đô Thăng Long. Bà lớn lên và học tập ở phường Bích Câu gần đó, và ở độ tuổi 16 đã trở thành một người tài năng về văn chương và võ thuật. Ở tuổi 22, Lý Châu Nương gặp ông Trần Thái Bảo và kết duyên, theo chồng về trấn giữ Hoan Châu. Ông Trần Thái Bảo là một tướng tài đã phục vụ trong hai triều đại của vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông.
Lý Châu Nương đã có công giữ quản lý kho lương trong cả hai cuộc kháng chiến đầu tiên chống lại xâm lược của quân Nguyên, và được phong chức Quản trưởng quốc khố. Khi quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, bà đã nghe tin chồng mình hy sinh tại Thao Giang, và vào ngày 20 tháng 7 âm lịch, bà đã tự vẫn. Vua Trần đã truyền cho bà danh hiệu Phúc thần phường Võ Trại và cho xây dựng một đền ngay trong khu vực kho lương để được thờ cúng. Sau đó, đền được phường sửa sang và chuyển thành nơi thờ tự, trong khi nơi ở cũ của bà được chuyển đổi thành đền thờ chính.
Trong thời kỳ chinh phục của nhà Nguyễn, làng Giảng Võ nằm bên cạnh con đường cái quan từ Hà Nội đi Sơn Tây. Trước cổng đình vào ngày 21-12-1873, đã diễn ra một trận đánh nổi tiếng, trong đó chỉ huy Pháp, Francis Garnière, vừa chiếm thành Hà Nội, đã bị quân Cờ Đen phục kích từ đình và bị giết. Ngôi mộ giả của ông vẫn có thể thấy gần đó, nằm dưới hai cây cổ thụ ven đường La Thành, cho đến thời kháng chiến chống lại Mỹ.
Diện tích ban đầu của khu vực đình Giảng Võ là khoảng 10.000m2, nhưng hiện nay đã bị thu hẹp và chỉ còn lại 1.700m2 do sự lấn chiếm. Mặc dù đã trải qua nhiều lần tu sửa, nhưng đình vẫn giữ được những đặc trưng của kiến trúc cổ. Tam quan cũ, được gọi là Bảo Khánh Môn, đã mất đi, chỉ còn lại một số viên đá xanh lớn gần cổng chính ở bên hông sân đình. Trước sân là một hồ nước hình vuông, có một giả sơn ở giữa và xung quanh là rừng cây um tùm, tạo nên một không gian di tích đẹp và mát mẻ. Đối diện sân là hai ngôi miếu nhỏ để thờ hai nàng hầu của Lý Châu Nương và hai tấm bia đá.
Nhà phương đình đã bị Pháp đốt phá từ năm 1946, sau đó mới được xây dựng lại với hai tầng tám mái trên nền cũ. Cùng với đó là toà đại đình nối với hậu cung theo hình dáng chuôi vồ. Đây là nơi thờ bài vị Lý Châu Nương với long ngai và tượng của bà. Điểm cổ nhất của di tích nằm hai bên phương đình là hai nhà tả, hữu mạc, vẫn còn khá nguyên vẹn với kiến trúc độc đáo, kết cấu với kèo quá giang và đầu hồi được bít đốc bằng các cây trụ đỡ mái. Ngoài ra, còn có một số con nghê đá được cho là từ thời Lê Trung Hưng, hai tấm bia đá và một số trụ đá trước đây được sử dụng để kê chân cột đình. Phía sau nhà tả mạc là nơi hóa vàng và các công trình phụ. Xung quanh hồ, mặt đất được lát gạch, tạo thành lối đi bộ dưới bóng cây cổ thụ.
Trên mái đình, có một bức đại tự ghi chữ “Lý Trần phương danh” (lấy từ hai họ Lý, Trần). Bên trong đình, vẫn còn giữ được 13 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến dành cho Lý Châu Nương. Ngoài ra, còn có một bức đại tự “Nữ trung anh kiệt” (anh hùng hào kiệt trong giới nữ) và đôi câu đối ca ngợi Bà:
Tài chính túc sung quân môn nội mệnh văn thiên tử chiếu
Âm mưu năng thoái lỗ quốc trung danh chấn nữ thần cơ
Dịch tạm:
Của cải đủ nuôi quân, khắp chốn nghe tin vua xuống chiếu
Mưu hay lui giặc dữ, nước nhà nức tiếng nữ tài cao.
Hàng năm, dân địa phương thường tổ chức lễ dâng hương thành kính vào các dịp ngày sinh và ngày hoá của Bà Chúa Kho.
Các đình khác tại Quận Ba Đình