Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc một danh nhân quả cố. Nhiều đền thờ dành cho các thần thánh trong tôn giáo hoặc tín ngưỡng địa phương. Chẳng hạn ở Trung Quốc có các đền thờ các vị thần tiên của Đạo giáo như Tam Thanh Huyền Đế, Linh quan, Lão Đăng lộc đình, Thần Vũ Bát sát, Lão tổ Thiền sư, Hắc hổ Huyền đàn và Sùng linh Địa kỳ…; ở Ai Cập cổ đại có các đền thờ chư thần (như đền thần Isis ở Philae) hoặc đền thờ pharaon ; còn ở Hy Lạp có các đền thờ các vị thần trong Thần thoại Hy Lạp như đền Delphi thờ thần Apollo.
Nhiều đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của một anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương mà được dựng lên theo truyền thuyết dân gian.
Ở Việt Nam có nhiều nhân vật có thực trong lịch sử được xây dựng đền thờ ở rất nhiều nơi là Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Quốc Sư, Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành và đặc biệt là các đền thờ Trần Hưng Đạo.
Trong hệ thống đền thờ ở Việt Nam, có thể nói những đền thờ thuộc Tín ngưỡng Tam Tứ Phủ chiếm đa số, với số lượng rất lớn tạo thành một hệ thống Đền Thờ Tam Tứ Phủ. Đây là những công trình kiến trúc thờ các vị thánh thuộc Tứ Phủ và thờ chung cho Công Đồng Tứ Phủ, chân linh bốn miền vũ trụ. Một số ngôi đền nổi tiếng trong tín ngưỡng Tứ Phủ như Đền Đồng Bằng, Đền Sòng Sơn, Đền Lảnh Giang, Đền Ninh Giang, Đền Ông Hoàng Bảy, Đền Ông Hoàng Mười, …
Phủ cũng là một công trình kiến trúc tôn giáo tương tự như Đền. Tuy nhiên từ “Phủ” làm cho chúng ta liên tưởng tới nơi đặt trụ sở của cơ quan chính quyền (như Phủ Chủ Tịch, Chính Phủ, …). Xưa kia thì Phủ dùng để chỉ quan thự, dinh quan, tức là nơi quan làm việc của các quan. Phủ cũng dùng để chỉ một đơn vị hành chính thời phong kiến tại Việt Nam và Trung Quốc, cao hơn cấp tỉnh.
Như vậy việc dùng từ “Phủ” cho các nơi thờ tự thuộc Tín ngưỡng Tứ Phủ để làm trang trọng và tăng thêm phần uy nghiêm cho những nơi thờ tự đó. Suy cho cùng phủ là một nơi thờ tự Tứ Phủ khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương. Một số Phủ trong Tín ngưỡng Tam Tử Phủ là Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ, Phủ Đồi Ngang, Phủ Vân Cát, Phủ Quảng Cung, …
Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thường được toạ lạc ở nơi xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và chỉ là nơi yên nghỉ của các vị thánh thần. Khi miếu khi phối thờ Phật cùng thì được gọi là Am, ở Nam Bộ miếu còn được gọi là miễu.
Miếu nhỏ hơn đền, thường xây theo kiểu hình chữ nhật với hai phần cách nhau bởi một bức rèm, nội điện bên trong và nhà tiền tế bên ngoài…. miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng làm nhộn. Trong miếu cũng cỏ tượng thần hoặc bài vị thần linh, đặt trên ngai, ngai đặt trên bệ với thần sắc hoặc bản sao…
Miếu là công trình nhỏ nhưng lại có kiến trúc rất đa dạng. Thường có 3 gian chạy dọc vừa có nội điện vừa có nhà tiền tế. Không có tả hữu gian, sân nhỏ và không có tam quan. Tuy nhiên cũng có những ngôi miếu đồ sộ như toà nhà lớn, nhiều gian và nhiều lớp cấu trúc.
Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bả hoặc miếu thuỷ thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ.
Miếu còn là nơi thờ cúng các bậc trung liệt có công với nước, với dân như miếu Ngòi làng Lũng Ngoại xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc (di tích được xếp hạng cấp quốc gia năm 1994).
Miếu thường được toạ lạc ở nơi xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và chỉ là nơi yên nghỉ của các vị thánh thần. Trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.
Ở Việt Nam cũng có những miếu thờ về Tam Tứ Phủ, tuy nhiên do quy mô thờ về Tam Tứ Phủ thường rộng lớn hơn nên cấu trúc thờ tự chủ yếu tập trung ở hình thức Đền Thờ và Phủ, còn Miếu thờ về Tam Tứ Phủ thì ít hơn.
Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ vua chúa ở, chỗ thờ thần thánh. Như vậy Điện thờ là một hình thức của đền, nơi thờ thánh trong tín ngưỡng dân dã Việt. Tuy nhiên quy mô của Điện thờ thường nhỏ hơn so với Đền thờ và Phủ, và lớn hơn so với Miếu thờ.
Điện phổ biến thờ Thánh Mẫu, Tam Tử Phủ, Trần Triều hoặc các thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân, tuy nhiên đa phần Điện thờ là thuật ngữ dùng để chỉ nơi thờ tự của tư nhân. Trên ban thờ ở Điện thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: Tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã, …
Linh Từ là một cách gọi khác của Đền Thờ. Ở đây “Từ” nghĩa là đền thờ, nhà thờ, nơi thờ tự. Còn “Linh” nghĩa là chân linh, linh hồn hoặc cũng có nghĩa sự thần diệu, diệu kỳ, ứng nghiệm. Một số nơi thờ tự vừa có thể gọi là Đền, vừa được gọi là Linh Từ. Ví dụ như Đền Quan Lớn Đệ Nhất = Quan Lớn Đệ Nhất Linh Từ, hoặc Đền Chầu Lục = Lục Cung Linh Từ, v.v…
Tham khảo thêm:
Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về những khái niệm cơ bản về nơi thờ tự.
Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu.
Xin trân trọng cám ơn!