Hội đền Cổ Loa, diễn ra từ mồng 6 đến 18 tháng Giêng hàng năm tại xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, là dịp để người dân tưởng nhớ và tri ân công đức của An Dương Vương và Mỵ Châu – những vị vua dựng nước và giữ nước oai hùng. Nổi bật với những nét độc đáo như cỗ bỏng, lễ rước vua giả và lễ ăn sêu bà chúa, hội đền Cổ Loa là minh chứng cho bản sắc văn hóa lâu đời, mang đậm giá trị lịch sử và tâm linh của người dân Kinh Bắc.
Thông tin lễ hội
Thờ: An Dương Vương, Mỵ Châu
Thời gian: Từ mồng 6 đến 18 tháng giêng
Chính hội: Mồng 6 tháng giêng
Địa điểm: Xã Cổ Loa, huyện Đông Anh
Đặc điểm
Từ nội thành Hà Nội, theo đường quốc lộ số số 2 Hà Nội – Lào Cai, tới cây số 17 rẽ sang tay phải ta sẽ đến đền Cổ Loa. Đền nằm trong địa phận xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
Xã Cổ Loa gồm làng Đông, làng Đoài và làng Chùa. Xưa kia ba làng này có 12 xóm, cho đến ngày nay tên gọi vẫn còn được giữ lại như những chứng tích của lịch sử một thời. Các xóm ấy là: xóm Thượng, xóm Nhồi, xóm Dõng, xóm Gà, xóm Lan Trì, xóm Chùa, xóm Chợ, xóm Vang, xóm Hương, xóm Mít, xóm Bãi và xóm Trại.
Từ xưa đến nay, mười hai xóm vẫn cùng nhau thờ phụng, trông coi di tích nổi tiếng này, và hằng năm cứ mồng 6 tháng giêng lại mở hội để tưởng nhớ An Dương Vương, nhớ lại một trang sử cổ đại vừa oai hùng vừa bi thảm của đất nước, gắn liền với một mối tình nổi tiếng, một bài học lớn về sự cảnh giác.
Là người Việt Nam, có lẽ không ai không biết đến câu chuyện An Dương Vương xây Loa thành dài hơn nghìn trượng hình xoáy ốc, với sự giúp đỡ của rùa vàng (thần Kim Quy) và câu chuyện tình đầy nước mắt của Mỵ Châu – Trọng Thủy. Sử sách viết nhiều, thần phả ở đền cũng có, đây chỉ xin tóm tắt truyền thuyết này theo sách Lĩnh Nam chích quái.
An Dương Vương nước Âu Lạc tên là Thục Phán, nối nghiệp các vua Hùng dựng nước, đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Vua muốn xây thành nhưng mất bao công sức đều vô ích, cứ xây xong thành lại đổ. Vua buồn lắm bèn lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng 7 tháng ba bỗng thấy một cụ già từ phương đông đi tới trước cửa thành mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho được.” Vua mừng rỡ đón vào trong điện, thi lễ hỏi rằng: “Ta đắp thành này nhiều lần sụp lở, tốn công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?” Cụ già đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng mới thành công.” Nói rồi từ biệt ra về.
Hôm sau, vua ra công thành chờ đợi, chợt thấy một con rùa vàng từ phương đông tới, nổi trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương quỉ thần. Vua mừng rỡ nói: “Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết trước.”
Sau đó, được sự giúp đỡ của rùa vàng, thành xây xong nhanh chóng, rộng hơn ngàn trượng, bề thế, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành, còn gọi là Quy Long Thành.
Rùa vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về. Vua cảm tạ nói: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài vào thì lấy gì chống?”. Rùa vàng đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, nhưng con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn, ta có tiếc chỉ.” Xong bèn tháo vuốt đưa tặng và nói: “Dùng vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì bách phát bách trúng lo gì không giữ được thành.” Dứt lời, rùa trở về biển đông.
Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy gọi là “Linh Quang Qui thần cơ”. Về sau Triệu Vương là Đà cử binh xâm lược phương Nam, cùng vua giao chiến. Vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà tan tác, bỏ chạy về Trâu Sơn đắp lũy canh phòng, phải xin hòa không dám đối chiến. Hai bên giao ước phía bắc sông Tiểu Giang thuộc Triệu Đà, phía nam thuộc An Dương Vương.
Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy gọi là “Linh Quang Qui thần cơ”. Về sau Triệu Vương là Đà cử binh xâm lược phương Nam, cùng vua giao chiến. Vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà tan tác, bỏ chạy về Trâu Sơn đắp lũy canh phòng, phải xin hòa không dám đối chiến. Hai bên giao ước phía bắc sông Tiểu Giang thuộc Triệu Đà, phía nam thuộc An Dương Vương.
Ít lâu sau, Triệu Đà cầu hôn, vua vô tình gả con gái là Mỵ Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy xin ở rể. Một hôm bảo vợ cho xem nỏ thần, lại ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt rùa vàng, cất vào chỗ cũ, rồi nói dối là về phương Bắc thăm cha. Trước lúc lên đường Thủy hỏi: “Tình vợ chồng không dễ lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu chẳng may hai nước bất hòa, bắc nam cách biệt, ta đi tìm nàng, lấy gì làm dấu?” Mỵ Châu buồn bã trả lời: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo quý bằng lông ngỗng, thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ dứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau.”
Trọng Thủy về nước. Triệu Đà được lẫy cả mừng, bèn cử binh sang đánh Âu Lạc. Vua cậy có nỏ thần vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Đà tiến sát. Vua cầm lấy nỏ bắn không linh nghiệm, biết lẫy thần đã mất, bèn lên ngựa bỏ chạy. Mỵ Châu ngồi đằng sau phụ vương, ngựa phi về phương Nam.
Trọng Thủy cứ theo dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường cùng, không có thuyền qua kêu rằng: “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau đến cứu” Rùa vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ ngồi sau ngựa chính là giặc đó!” Vua bèn tuốt kiếm muốn chém Mỵ Châu, My Châu khấn rằng: “Thiếp là phận gái, nếu lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục này.” Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn được đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, rùa vàng rẽ nước đưa vua xuống biển.
Người sau truyền rằng nơi đó là đất Dạ Sơn, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu (Nghệ An). Quân Đà kéo tới đấy không thấy dấu vết gì, ngoài xác Mỵ Châu. Trọng Thủy ôm thi hài vợ đem về táng ở Loa thành. Thi hài biến thành ngọc thạch. Trọng Thủy không sao quên được người vợ hiền dịu, bèn lao xuống giếng tự tử. Người đời sau mò được ngọc ở biển đông lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng thêm, nhân kiêng tên Mỵ Châu cho nên gọi ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu.
Ai về qua huyện Đông Anh,
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương.
Cổ Loa thành ốc khác thường,
Trải bao năm tháng dấu thành còn dây.
Vùng Cổ Loa còn giữ được nhiều di tích giá trị mà truyền thuyết đã nhắc đến. Đó là đền thờ An Dương Vương Thục Phán, am Bà chúa thờ công chúa Mỵ Châu, hòn đá tự nhiên có hình như pho tượng cụt đầu, người ta cho là hình bà chúa, đường Mèn nơi phát hiện ra hàng vạn mũi tên đồng, đình Cổ Loa …
Đền thờ An Dương Vương nằm trên địa phận xóm Chùa, còn gọi là đền Thượng. Trước đền là hai con rồng đá, sân đền được lát đá, theo bia ký thì đền được xây dựng năm 1687 và sửa lại năm 1893.
Đền được xây dựng trên một gò đất cao dưới chân lũy thành cũ, về góc tây-nam. Theo dân gian, đó là đầu con rồng. Qua cổng ngoài đền sẽ tới cổng tam quan cổ kính với lầu thượng cao, hai bên lối đi có hai giếng mắt rồng đối xứng nhau. Bước qua cổng tam quan là vào sân đền, hai bên sân có nhà khách cho người thập phương dừng chân sửa lễ.
Nơi thờ An Dương Vương gồm có hạ điện và thượng điện. Hạ điện là một ngôi nhà ba gian to, cao, cột lim đồ sộ, tám mái cong vút. Hai bên hạ điện có hai dãy nhà hành lang phía ngoài xây kín nối với thượng điện. Khoảng vuông ở giữa là một ngôi nhà chồng diêm tám mái cao. Trên bàn thờ có tượng rùa bằng gỗ sơn son thếp vàng và một chiếc nỏ đặt sẵn tên. Đó là bàn thờ thần Kim Qui. Thượng diện cũng có ba gian, bàn thờ An Dương Vương đặt giữa, bên đông thờ Hoàng hậu, bên tây thờ Thái thượng hoàng. Tượng An Dương Vương bằng đồng, mặc triều phục.
Phía tây đền An Dương Vương là nhà bia, trên một gò đất cao xưa kia vua lập miếu thờ Thần nông. Cách cổng đền không xa về phía trước là ao tròn, chính giữa có một cồn đất tròn, giữa có giếng nhỏ xây gạch. Tương truyền đó là giếng Ngọc, nơi xưa kia Trọng Thủy nhớ Mỵ Châu đã nhảy xuống tự tử.
Cách đền vài trăm mét là am Bà Chúa ở cạnh đình Cổ Loa. Nơi đây có một cây đa cổ thụ trùm bóng mát lên am. Am Bà Chúa cũng có thượng điện và hạ điện. Hạ điện là ngôi nhà nhỏ ba gian, ở giữa là bàn thờ. Cách đó một sân nhỏ là thượng điện cũng ba gian, gian giữa đặt bàn thờ công chúa, hai bên là 12 nàng hầu. Sau bàn thờ công chúa, vén bức màn ta sẽ thấy một khối đá hình người phủ vải vàng. Khối đá có ba bề xây kín đó là mộ Mỵ Châu theo tương truyền của dân gian.
Đình Cổ Loa cũng nằm trong cụm di tích thờ An Dương Vương. Đình được xây trên vùng đất mà theo tương truyền là nơi vua ngự triều. Đình trông về hướng nam, trước có tam quan nay đã bị phá. Tiếp theo là một lớp cửa xây kiểu tam quan, có cửa kín ở giữa và hai cửa nhỏ hai bên. Cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, cửa hai bên kiểu tò vò mái giả. Sau lần cửa là sân gạch rộng, bên phải có cây đa tỏa bóng che kín am Mỵ Châu ở cạnh đình.
Xưa kia, chung quanh những di tích này dân làng tổ chức hội kéo dài từ ngày 6 đến 18 tháng giêng mới văn, để tưởng nhớ An Dương Vương và những sự tích xoay quanh ông. Khu di tích lịch sử này đã nổi tiếng lâu đời, thu hút lớp lớp người nhiều thế hệ đến đây, như ca dao xưa truyền lại.
Ai về qua huyện Đông Anh,
Ghé thăm phong cảnh Loa thành Thục Vương.
Từ lâu trong dân gian đã lưu truyền câu: “Chết thì bỏ con bỏ cháu, sống thì không bỏ mồng 6 tháng giêng” để nói lên sự hấp dẫn của lễ hội Cổ Loa. Xưa kia hội bắt đầu từ mồng 6 đến hết ngày 18 tháng giêng. Tương truyền ngày 6 tháng giêng là ngày ông lên ngôi, khao toàn bộ binh sĩ. Cho nên để nhớ ngày long trọng ấy dân Cổ Loa với tám xã cùng nhau rước kiệu mở hội đông vui cả một vùng.
Cũng từ lâu các triều đại phong kiến đã hết sức chú ý giúp dân địa phương chăm lo hương khói tại đền. Chỉ dụ lâu đời nhất đề niên hiệu Thuận Đức thứ nhất (1600) đời Lê Kính Tông còn ghi: “Cấp cho xã Cổ Loa 50 mẫu ruộng tế điền miễn thuế để trông coi đền miếu.” Những đời vua sau, vào các niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 2 (1620), Phúc Thái thứ 7 (1649) Cảnh Trị thứ nhất (1663), Vĩnh Thịnh thứ 4 (1708), Long Đức thứ 4 (1735), Vĩnh Hựu thứ 6 (1740), đều có chỉ dụ nhắc lại.
Lễ vật dùng tế lễ ngoài sự đóng góp của các giáp còn có hoa lợi của số ruộng đã kể trên. Trong đó 21 mẫu dùng cho làm cỗ bỏng, 25 mẫu dành cho lễ. Ngoài ra là để hương khói các ngày tháng sinh, hố của thánh.
Cổ Loa còn kết chạ với 8 xã khác ở chung quanh cùng mở hội thờ An Dương Vương từ ngày mồng 6 tháng giêng. Do vậy hội đền An Dương Vương là một hội lớn trong vùng với sự tham gia không chỉ riêng dân xã Cổ Loa mà còn có các làng kết nghĩa nữa.
Tuy mồng 6 tháng giêng mới là ngày chính hội, nhưng dân làng đã tiến hành lễ nhập tịch từ 14 tháng chạp.
Những năm được mùa thì lễ nhập tịch được tiến hành rất long trọng. Khắp nơi trong làng đường xá được sửa sang, quét dọn sạch sẽ. Các di tích được quét dọn, lau chùi tu bổ đồ tế khí, cờ quạt được trưng bày… để chuẩn bị cho những ngày hội lớn.
Ngày 18 tháng chạp là lễ gia quan. Áo mũ của thần được đem ra đặt lên kiệu rước về đền nơi thần ngự. Những người khiêng kiệu hôm đó phải chay tịnh từ trước. Các người hành lễ cũng phải giữ thanh khiết, bịt miệng bằng vải đỏ trong lúc phong bao áo mũ cho thần. Sau đó tiến hành một tuần tế gọi là tế gia quan.
Ngày chính hội (mồng 6 tháng giêng) được bắt đầu bằng các cuộc lễ rước và đại tế
Trước hội, phe tư văn trong làng đã lựa chọn người văn hay chữ tốt viết chúc văn tế thần. Người đó còn phải là người đỗ đạt cao, có tài văn chương được mọi người tín nhiệm. Phe tư văn có văn chỉ và có ruộng tư văn 3 mẫu để chi vào việc hội họp và nghi lễ trong năm.
Từ sớm ngày mồng 6, một đoàn người mặc lễ phục cầm cờ quạt, tàn, long đình, dẫn đầu là chủ lễ mặc áo thụng xanh, đội mũ tế đến nhà ông điển văn rước bản văn ra đền. Đám rước rất nghiêm trang và lộng lẫy. Một hồi tù và rúc lên, báo hiệu đám rước văn đã tới. Ông cai đám ở đền Thượng ra nghênh tiếp bản văn và rước vào trịnh trọng đặt lên hương án. Đoàn người lần lượt lễ thần rồi lui ra.
Trong khi dân làng Cổ Loa rước văn ra đền, thì bảy xã lân cận cũng tiến hành cuộc rước kiệu tới đền Cổ Loa. Từ khắp các ngả đường, đâu đâu người ta cũng gặp các đám rước với cờ quạt, nghi trượng, kiệu, phường bát âm và màu cờ sắc áo lễ phục rực rỡ của mọi người, tạo nên quang cảnh ngoạn mục giữa tiết trời xuân. Đám rước của các xã đến đầu làng thì Cổ Loa cử người ra nghênh đón và đưa vào đền Thượng. Trước cửa đền Thượng là hai con ngựa gỗ to như ngựa thật được trang trí đủ ngù, đai thêu kim tuyến rất đẹp. Trên lối đi vào nội điện là hai hàng cờ quạt, chấp kích xếp hàng song song. Khoảng giữa sân là kiệu của các xã. Trước cửa đền là hương án lớn bày bộ ngũ sự bằng đồng và các lễ vật cùng hộp kính đựng hia vàng. Bên cạnh là hương án nhỏ trên bày chiếc đỉnh và đôi hạc đồng cùng chiếc nỏ, bó tên và 1 thanh kiếm. Nỏ sơn son thếp vàng, biểu trưng của chiếc nỏ thần xưa. Không khí ngày hội thật nhộn nhịp, quang cảnh thật hoành tráng!
Điều đáng lưu ý là lễ vật dâng lên ngoài hương, hoa, oản, quả và xôi thịt, còn có cỗ bánh giầy, cỗ bỏng và chè lam. Tương truyền đó là những thứ mà An Dương Vương đã dùng để khao quân.
Mặt khác, theo nghi thức thì đây là tế hội đồng, bảy xã cùng với Cổ Loa thay phiên nhau hành lễ. Thường Cổ Loa là chủ nên được tế trước. Nhưng bao giờ Cổ Loa cũng mời làng Quậy (Liên Hà) tế đầu tiên, vì người làng Quậy mới là dân gốc ở đây. Cuộc đại tế đến quá ngọ (12 giờ trưa) mới hoàn tất, mỗi xã cử bốn quan viên vào lễ tạ. Mọi động tác nghi lễ đều tuân theo hiệu trống chiêng. Trong lúc đó, ở nội tự đại diện các xã cầu nguyện nhà vua phù hộ cho làng mình được bình yên, thịnh vượng.
Tiếp đó là lễ nghênh rước thần từ đền sang đình để dự hội. Đám rước này khá đặc biệt, từ đền Thượng đi vòng qua giếng Ngọc ra đến đầu làng, rồi thần về ngự tại đình Cổ Loa. Tuy đường ngắn nhưng đám rước đi rất chậm và kéo dài thời gian. Tất cả kiệu của các làng đều dự rước. Đây là đám rước uy nghiêm và lớn nhất. Đến tam quan, các kiệu dự lễ ban phúc trước lúc ra về. Ông chủ tế của làng Cổ Loa thắp hương, xóc thẻ, rồi ban phúc cho các xã bằng cách cắm cho mỗi kiệu ba nén hương. Hương này đủ cháy cho đến khi kiệu về tới xã mình. Sau đó, Cổ Loa vào tế một tuần cuối tại đình, kết thúc nghi lễ ngày chính hội. Kể từ đó cho hết hội, tại đền và đình tiến hành lễ túc trực, và lễ của các phe, giáp, các dòng họ cũng như các đoàn thể khác và khách thập phương với lễ vật tự mang đến.
Xưa kia, lễ hội này có một tiết mục rất đặc sắc, đó là lễ rước vua giả (hoặc vua sống) của làng Nhội (nay thuộc xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh). Truyền thuyết kể rằng làng Nhội là nơi có núi Sái, trên núi có đền thờ Trấn Vũ. Một nhà tu ở đây xin giúp vua trừ yêu quái, giúp An Dương Vương xây thành ốc. Sau này, để nhớ công lao của vị pháp sư đã giúp mình, Thục An Dương Vương đã tự mình đến núi Sái làm lễ tạ ơn. Pháp sư cảm động, tặng vua chiếc gậy có hình đầu chim vốn là của thần Phượng Hoàng để vua giữ nước. Tại đây nhà vua đã cho xây dựng miếu điện để hằng năm trong thời gian hội, vào ngày 12 tháng giêng nhà vua cùng bá quan văn võ sang tế lễ. Nhưng rồi vì quá tốn kém và đi lại làm hại mùa màng nên An Dương Vương giao cho dân làng Nhội cử người thay mặt mình (đóng vai vua) và tổ chức tế lễ giống như triều đình.
Người cao tuổi nhất, có đức độ, đóng vai vua để hành lễ. Một người khác đóng vai pháp sư múa gươm chém 3 nhát vào hòn đá trước đền gọi là lễ ươm gươm để trừ ma quái, cầu cho làng bình yên, làm ăn thịnh vượng. Lễ ấy vẫn lưu truyền đến nay, góp phần làm phong phú thêm các hoạt động của lễ hội Cổ Loa.
Trong suốt 12 ngày đêm tại đền và đình đều có lễ túc trực. Đến 18 tháng giêng, người ta tổ chức một đại tế gia đám tại đền. Các nghi thức của buổi lễ được cử hành giống như đại lễ ngày chính hội. Sau cùng, thần vị được rước hoàn cung và kết thúc hội.
Ngày này, làng mở tiệc ăn uống vui vẻ, mọi người cùng nhau hưởng lộc thánh lấy phước cho một năm với nhiều hy vọng.
Ngoài lễ hội lớn này, tại đền trong năm còn có những kỳ tế khác. Đó là ngày 11 tháng 8, tục truyền là ngày sinh của vua An Dương Vương, và mồng 7 tháng 3 là ngày thánh hóa. Riêng ngày thánh sinh, ở đây dân làng còn tổ chức nhiều trò vui vẻ đặc sắc và tổ chức ăn uống linh đình để mừng thánh ra đời. Còn ngày thánh hóa chỉ tế lễ mà không có tiệc tùng ca hát gì. Dân Cổ Loa còn có phong tục đặc sắc nữa là lễ “ăn sêu bà Chúa”, tức là lễ ăn hỏi công chúa Mỵ Châu vào ngày 13 tháng 8.
Các trò vui hội hè ở Cổ Loa được tiến hành tại sân đình và chung quanh các nơi thờ tự. Cũng như các hội làng ở Bắc Bộ, hội Cổ Loa có những trò vui như cờ người, đấu vật, chọi gà, nhún đu, tổ tôm, hát tuồng, chèo…
Cờ người là cuộc thi thú vị diễn ra tại sân đền. Tùy theo từng năm số người đăng ký đấu nhiều hay ít mà người ta phân bảng hay đấu vòng. Thường thường số người chơi không nhiều mà thời gian hội dài nên người ta tổ chức đấu vòng. Ai muốn dự thi phải được khảo, nếu là người cao cờ mới được chơi. Trước khi vào cuộc đấu, phải vào lễ thánh. Cứ lần lượt đấu loại nhau, người giữ cho đến cuối cùng thì được giải. Ngày cuối cùng đông vui nhất vì là ngày phá giải cờ. Ai phá giải thì được suy tôn là người giỏi cờ nhất hội năm đó. Thường thường vì danh dự nên các làng đều cử những tay cờ giỏi nhất của mình đến tham gia. Thắng cờ là niềm vinh dự lớn cho cả làng.
Trò đấu vật lại diễn ra ở bãi đất ngoài đình. Nếu như ở giải cờ là cuộc đấu trí thông minh, thì ở giải vật là tinh thần thượng võ, sức khỏe, sự nhanh nhẹn và cũng không kém phần thông minh. Do vậy giải vật cũng là một giải mang vinh dự lớn cho các đô và dân làng. Giải vật chỉ có ba bậc: giải cọc, giải thứ và giải cuộc. Mỗi bậc có thể có nhiều người được giải. Giải cuộc là giải cho tất cả các đô vật vào gióng: mâm thau, vò rượu hay thùng gạo nếp… Các chàng trai đua nhau đọ sức so tài không chỉ vì giải mà còn là dịp để phô bày sức khỏe và tài nghệ của mình trước bàn dân thiên hạ, trước mắt các cô gái trong vùng. Đối với họ đó là niềm vui, niềm vinh dự mà hội làng mang đến, chứ không chỉ là sự ăn thua.
Chọi gà cũng là một trong những trò vui nổi tiếng ở đền Cổ Loa. Vùng này cũng là vùng hay tổ chức đấu gà chọi và nuôi gà chọi. Do vậy, trong dịp hội người ta đem đến đây những cặp gà đã được nuôi nấng, luyện tập rất công phu để tranh giải.
Các cụ cho biết thời xa xưa hội Cổ Loa có đánh trống đồng, nam nữ từng đôi “giã trống” (như gia cối gạo chày tay). Tiếng trống đồng trầm hùng vang vang, như thời con người còn ở núi ở rừng.
Ngoài những cuộc vui trên, trong hội Cổ Loa còn nhiều trò vui và cuộc đua tài khác không kém phần hấp dẫn, như tổ tôm thu hút các cụ già, nhún đu lôi kéo các trai thanh gái lịch, lại còn múa rối nước, hát cửa đình… Ban đêm có hát tuồng, chèo. Đây là những đêm hội mà xưa kia người dân quê ai cũng say mê đến mức có thể “bỏ con bỏ cháu” để về với hội. Những trò vui ấy kéo dài suốt từ ngày mở đám cho đến ngày giã hội.
Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Hội đền Cổ Loa. Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu: