Chùa Cót (Ngọc Quán Tự)
Chùa Cót, còn được gọi là Ngọc Quán Tự, là một ngôi chùa tồn tại từ trước năm 1642. Theo tấm văn bia niên đại Dương Hoà thứ 8 (1642) hiện được lưu giữ tại chùa, có ghi lại việc mua ruộng để cúng hậu và làm lại chùa cũ… Điều này cho thấy chùa đã tồn tại ít nhất từ nửa đầu thế kỷ 17.
Dân gian thường gọi chùa Ngọc Quán Tự là chùa Cót theo tên gọi trong thôn Hạ Yên Quyết, tức làng Cót, nổi tiếng với nghề làm giấy. Chùa Cót nằm tại số 188 phố Yên Hòa, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Mục Lục Bài Viết
Lịch sử Chùa Cót
Vào đầu thế kỷ 19, Hạ Yên Quyết thuộc tổng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai. Từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nó được chuyển sang phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội. Vào tháng 12 năm 1942, nó thuộc Đại lý Hoàn Long. Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm, nó được gọi là xã Song Yên với tên gọi bí mật.
Đầu năm 1956, làng Cót thuộc xã Yên Hoà, quận 6, ngoại ô Hà Nội. Sau đó, vào năm 1961, một nửa phố Cầu Giấy đã được cắt ra và trở thành nội thành, còn lại thuộc xã Yên Hoà, huyện Từ Liêm. Vào cuối thế kỷ 20, xã Yên Hoà đã trở thành một phường nội thành thuộc quận Cầu Giấy và hoàn toàn đô thị hoá.
Chùa Cót có vai trò quan trọng trong lịch sử, đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1945, các đoàn thể của mặt trận Việt Minh đã sử dụng chùa như một điểm tập trung quyên góp cứu tế. Vào tối ngày 18 tháng 8 năm 1945, chùa đã tổ chức mít-tinh chào mừng chính quyền cách mạng. Sau đó, chùa trở thành cơ sở tiếp tế cho bộ đội và tự vệ khu Đại La trong cuộc kháng chiến toàn quốc từ ngày 19 tháng 12 năm 1946. Trong thời gian đó, chùa đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp hỗ trợ cho các lực lượng chiến đấu tại tuyến đường Cầu Giấy và Kim Mã.
Vào tháng 12 năm 1972, chùa Cót được chọn làm sở chỉ huy cho chiến dịch tiêu diệt pháo đài bay B52, nhằm bảo vệ bầu trời Thủ đô. Điều này thể hiện vai trò quan trọng của chùa trong việc góp phần vào cuộc chiến quan trọng của quân và dân Việt Nam.
Chùa Cót hướng về phía tây-nam và mặt sau quay về phía chùa Láng, bên bờ đông sông Tô Lịch. Kiến trúc hiện tại của chùa mang phong cách nghệ thuật của thời Nguyễn. Sau giai đoạn chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, chùa đã trải qua tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Từ cuối thế kỷ 20, chùa đã bắt đầu được tôn tạo và tu bổ lại gần như toàn bộ các hạng mục, bao gồm cả trên trăm gian nhà gỗ được xây dựng theo phong cách cổ. Khuôn viên của chùa vẫn còn nhiều cây cổ thụ, thuộc loại cây rừng rậm phổ biến trong nội thành Hà Nội.
Kiến trúc Chùa Cót
Chùa Cót hiện nay được chia thành hai khu vực chính: khu chùa chính và khu vườn mới. Khu chùa chính được xây dựng theo phong cách “nội công ngoại quốc” và bao gồm các công trình như tháp cao, với mỗi tầng tháp đặt 6 pho tượng Phật nhỏ. Cổng vào chùa nằm ngay bên cạnh cổng một ngôi miếu nhỏ, mở ra ngã ba giữa phố Hoa Bằng và Yên Hoà về hướng đông-nam.
Bước qua cổng, du khách sẽ thấy một hồ nhỏ hình tròn dưới bóng cây xanh mát. Bên phải của hồ là một con đường dẫn vào cửa hậu của chùa. Cửa trước của chùa thường đóng và nằm ngay đầu con đường. Chùa Cót hướng về phía tây-nam qua một hồ nước hình vuông, có hai con rồng đá ở hai bên cầu ao, và có cây cổ thụ che mát. Tuy nhiên, phía trước chùa gần như bị các nhà dân xây dựng gần kín.
Tam quan của chùa được xây dựng cao và có tầng gác chuông. Phía sau là một khu vườn nhỏ, có lối đi qua sân con dẫn đến tiền đường. Dọc theo vườn và sân, có hai nhà giải vũ ngắn. Đối diện với hồ tròn ở phía bên kia sân con là một hồ nước vuông, nằm phía trước ngọn tháp bảo tháp sơn màu đỏ tím, và có khu vườn lớn xung quanh chân tháp. Như vậy, chùa Cót có ba hồ nước ở ba mặt khác nhau.
Tiền đường rộng 7 gian 2 dĩ và nối liền với nhà thiêu hương 5 gian theo kiểu chuôi vồ. Hai bên tiền đường có hai dãy hành lang dài chạy dọc sân sau. Giữa sân là toà phương đình, nơi đặt một tấm bia đá lớn đứng trên lưng rùa. Cuối sân là bậc thềm dẫn lên hai toà nhà trung đường và hậu cung xếp song song thành hình chữ “nhị”. Bên phải có điện Mẫu cũng xây dựng theo lối chữ “nhị” với 5 gian 2 dĩ phía trước và hậu cung 3 gian phía sau.
Ban thờ Phật đặt trong chính điện tương tự như nhiều ngôi chùa khác, nhưng trang trí xung quanh đơn giản hơn với nhiều đường thẳng và hình khối vuông vắn, phù hợp với thời đại hiện đại. Hậu cung có ban thờ Tổ Đạt Ma và các vị trụ trì đã qua đời. Dọc theo dãy hành lang phía tây còn có các ban thờ nhỏ hơn. Khu vực chùa chính với tháp lục giác mới xây bên cạnh tạo ra một không gian trang nghiêm và thoáng đãng.
Di vật tại Chùa Cót
Chùa Cót đã tu bổ và phục chế lại một số tượng thờ quan trọng. Tam bảo của chùa bao gồm các tượng Tam thế, A-di-đà, niêm hoa, Thích Ca sơ sinh, Quan Âm, A-nan, Ca-diếp, Hộ pháp, Đức ông, Thánh hiền… Trong điện Mẫu còn có các khám thờ và các tượng Mẫu cùng ngũ vị tôn ông, quan hoàng, đức thánh Trần…
Chùa còn giữ được rất nhiều di vật có giá trị khác như cửa võng, hoành phi, câu đối gỗ, bộ tam sự, bát hương, đồ gốm sứ, khánh đồng… Trên các cốn nách của chùa, có các đề tài tứ linh, tứ quý và đầu dư chạm rồng. Bên cạnh tấm bia đá được dựng vào năm Dương Hòa thứ 8 (1642), chùa còn có một quả chuông đồng được ghi niên hiệu Cảnh Thịnh 8 (1800).
Các Chùa khác tại quận Cầu Giấy: