Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, còn được tôn kính gọi là Ông Lớn Tuần Tranh, là một vị thần linh thiêng cai quản thiên địa binh, giải oan nghiệp, thu tài tiếp lộc. Với sắc phong Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần, Ngài được thờ phụng tại đền Ninh Giang (Hải Dương) và đền Kỳ Cùng (Lạng Sơn), với hai ngày lễ trọng đại là 14/2 Âm lịch (Đản sinh) và 25/5 Âm lịch (Ngày hóa).
Hình ảnh Quan Đệ Ngũ nổi bật với áo lam thêu rồng, hổ phù, và mạng, đai lam, thể hiện quyền uy và sự linh ứng của Ngài.
Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Cửa sông đâu đó phụng thờ
Kỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần Tranh
Danh hiệu:
Sắc phong: Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Đệ ngũ Tuần Tranh.
Phủ/ nơi cai quản:
Ngày khánh tiệc:
Trang phục:
Đền thờ chính:
Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh, là vị quan thứ năm trong Ngũ vị Tôn quan. Ngài có vai trò thanh tra, giám sát nhân gian. Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên binh, thay quyền con người, thu tài lộc, giải oan cho trần gian.
Sắc phong: Đệ Ngũ Tuần Tranh – Vị quan tối linh, thượng đẳng.
Truyền thuyết về gốc tích Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh xoay quanh thời Vua Hùng thứ 18. Ông là một trong 10 tướng của Phạm Vĩnh (Vua Cha Bát Hải Động Đình) đánh đuổi quân xâm lược trên 8 cửa biển.
Thần tích Đền Đồng Bằng kể rằng Phạm Vĩnh sinh ra từ rắn, biến thành người xin Vua Hùng đánh giặc. Ông triệu tập binh sĩ, cùng 10 tướng xuất quân. Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là một trong số đó. Các tướng được phân công trấn giữ các cửa biển, đánh tan giặc trong 3 ngày.
Ngoài ra còn có một truyền thuyết về Quan Lớn Đệ Ngũ như sau:
Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là con trai thứ năm trong gia đình lái đò thời Hùng Duệ Vương. Cha mẹ ông tìm thấy ổ trứng, nở ra chín con rắn, sau hóa thành chín chàng trai xin vua đánh giặc. Họ thắng trận, được phong làm chín ông Hoàng, nhưng rồi biến trở lại thành rắn, trở về sông. Dân làng lập đền thờ, trong đó có đền Đồng Bằng thờ cha ông.
Các thần tích đều nhấn mạnh Quan Đệ Ngũ là một trong mười tướng của Vua Cha Bát Hải Động Đình, có công đánh giặc ngoại xâm. Một số còn cho rằng ông là con trai thứ năm của vị vua này.
Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Bởi vậy mà có văn như sau:
Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên cộng hàng đầu
Theo một sự tích kể lại thì Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp là vợ lẽ của một viên quan, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh chồng chung, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Ông vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, vu cho ông đã quyến rũ vợ mình. Ông bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, để chứng tỏ mình vô tội, ông nhảy xuống dòng sông Kì Cùng mong rửa oan. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Đến khi viên quan phủ biết chuyện ông bà nông lão mua gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và đòi giết chết đôi bạch xà. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.
Cũng một truyền thuyết khác nói rằng ngài là em rể của Quan Đệ Tam. Khi Quan đệ Tam đi xử, bọn nịnh thần đố kỵ đổ cho Ngài gian dâm với chị vợ có thai, vua Hùng đầy Ngài ra biên giới. Ở nơi rừng thẳm chốn kỳ cùng, Ngài đã thác hóa cùng lời thề với trời xanh “xin dòng suối này nước chia đôi dòng từ đây”. Sau khi về trời dây oan của Ngài hóa thành đôi Bạch Xà về chốn quê hương, được hai ông bà nông dân nuôi dưỡng. Vì rắn càng ngày càng lớn mà gia cảnh thì nghèo nên ông bà phải đi ăn trộm cho rắn ăn và bị nhân dân bắt được nộp lên quan. Ông bà thật thà kể lại mọi chuyện. Quan bắt ông bà nộp rắn nhưng khi quan quân đến thì đôi Long Xà rẽ nước xuống thủy cung rồi nổi trận phong vân ầm ầm, Quan lớn Ngài thị hiện. Dân chúng biết Ngài bị oan lập đền thờ phụng sự.
Chính vì Quan Đệ Ngũ phải gieo xuống sông tự vẫn, cho nên một số tài liệu viết rằng rằng đến triều hậu Lê, Ngài thị hiện thành tướng quân Trần Nguyên Hãn với kết cục cũng phải đắm mình xuống sông tự vẫn. Đến thời sau lập đàn tràng giải oan cho các công thần thời hậu Lê ở chùa Côn Sơn trên núi Ngũ Nhạc: đào giếng rồng, lấy nước sông Kỳ Cùng để tắm ngọc Côn Sơn và từ đó hình thành long cung ngũ nhạc, Nam Bang thống nhất thánh cũng bắt đầu sinh ra. Ngài đã trở thành bất tử, không còn phải oan ức nữa và công lao của Ngài được truyền tụng vĩnh hằng.
Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Nam Việt ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thẳng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giao Long Hầu. Sau này ông còn hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân. Khi đô hộ Tàu đi dẹp giặc Chiêm Thành qua sông Tranh, Ngài đã hiển linh và đô hộ đã phong tước lập đền thờ Ngài.
Bởi vậy mà có văn như sau:
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão tập
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương
Một số tài liệu cho rằng Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh hóa thân thành Cao Lỗ tướng quân, tạo nỏ thần bách chiến bách thắng. Tuy nhiên theo tác giả thì quan điểm này không đúng vì những lý do sau:
Thứ nhất: Tất cả các thần tích và văn hầu đều nhắc đến Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh dưới triều Vua Hùng thứ 18. Ngài là một trong 10 vị tướng tài của Vĩnh Công Đại Vương đã lập lên những chiến công lớn đánh thắng giặc ngoại xâm.
Thứ hai: Không có thần tích hay bản văn chầu nào nói về việc Cao Lỗ là Quan Đệ Ngũ. Chỉ có bản văn chầu nói đến sự kiện Quan Tuần Tranh hiển linh ở sông Tranh khi quan quân của An Dương Vương đi qua đây.
Thứ ba: Các ngôi đền thờ Cao Lỗ không có sự liên hệ với Quan Đệ Ngũ hay gắn liền với tín ngưỡng Tứ Phủ.
Thứ tư : Xét về mặt logic nếu như Quan Tuần Tranh đã giáng vào Cao Lỗ tướng quân rồi thì không thể có chuyện ngài hiển linh ở sông Tranh khi quan quân của An Dương Vương đi qua sông Tranh được, vì khi đó ngài đã ứng vào Cao Lỗ tướng quân rồi. Và biết đâu cũng có thể trong số quan tướng của An Dương Vương khi đi qua sông Tranh cũng có mặt Cao Lỗ ở đó.
Có một số tài liệu nói về câu chuyện truyền thuyết “Truyện ông Dài, ông Cụt” để nói về sự tích Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Tuy nhiên theo tác giả thì câu chuyện này không phản ánh đúng về ngài.
Đọc câu chuyện “Ông Dài Ông Cụt”
Phản biện về chuyện Ông Dài Ông Cụt
Tác giả nhận thấy chuyện “Ông Dài Ông Cụt” có phần không phản ánh chính xác về hình ảnh Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, và tác giả xin đưa ra những nhận xét như sau:
Chuyện “Ông Dài Ông Cụt” không nêu ra được hoặc không liên hệ được với những chiến công của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh chống giặc ngoại xâm vào thời Vua Hùng thứ 18. Sự thiếu xót này rõ ràng không hợp lý, không phù hợp với những bản văn chầu ca ngợi công lao to lớn của ngài trong công cuộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước.
Chuyện “Ông Dài Ông Cụt” nhấn mạnh đến việc làm sai trái của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, trong khi các bản thần tích và văn chầu thì nhấn mạnh rằng Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh vốn bị oan chứ không phải ngài gây ra tội lỗi thực sự. Xét về mặt nhân sinh thì tôi có quan điểm rằng Quan Đệ Ngũ bị oan là đúng, và ngài là người có đức độ. Nếu xét quan điểm ngài không bị oan thì ngài đã không thể hiển linh sau khi mất, và ngài cũng không thể được khắp nơi phụng thờ như ngày nay. Đây là điều thứ hai làm cho tôi thấy chuyện “Ông Dài Ông Cụt” không hợp lý và không phản ánh đúng hình ảnh của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh.
Theo truyền thuyết và một số bản chầu văn thì “sau khi Quan Đệ Ngũ nhảy xuống dòng sông Kỳ Cùng, hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Vì rắn càng ngày càng lớn mà gia cảnh thì nghèo nên ông bà phải đi ăn trộm cho rắn ăn và bị nhân dân bắt được nộp lên quan. Ông bà thật thà kể lại mọi chuyện. Quan bắt ông bà nộp rắn nhưng khi quan quân đến thì đôi Long Xà rẽ nước xuống thủy cung rồi nổi trận phong vân ầm ầm và Quan lớn Ngài thị hiện, nhân dân biết ngài bị oan nên lập đền thờ”. Như vậy truyền thuyết cũng như bản văn chầu về Quan Đệ Ngũ có phần tương ứng với câu chuyện “Ông Dài Ông Cụt” ở chỗ đều có vợ chồng người nông dân nuôi một đôi bạch xà, sau đó đôi bạch xà trở về sông Tranh và hiển linh và được nhân dân lập miếu thờ phụng. Tuy nhiên giữa truyền thuyết cũng như bản văn chầu khác với chuyện “Ông Dài Ông Cụt” ở chỗ: theo truyền thuyết và văn chầu thì Quan Đệ Ngũ bị oan ức trước, bị đày đến chốn Kỳ Cùng rồi sau đó mới trở về thành đôi long xà để hiển linh, trong khi đó chuyện “Ông Dài Ông Cụt” lại nói Quan Đệ Ngũ là long và hiển linh ở sông Tranh trước, sau đó mới gây ra tội lỗi rồi bị oan và đày đến chốn Kỳ Cùng, trình tự cụ thể như sau:
Theo văn chầu và sự tích: Quan Đệ Ngũ lập lên những chiến công lớn thời Hùng Vương thử 18 → Ngài được ban thưởng và trấn giữ vùng Ninh Giang → Quan Đệ Ngũ bị oan vì thị phi — Ngài bị đày đến chốn Kỳ Cùng → Ngài đã gieo xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn → Ngài biến thành đôi bạch xà trở về quê nhà — Ông bà nông dân nuôi đôi bạch xà đỏ đến lớn → Ông bà nông dân sau đó thả đôi bạch xà về sông Tranh → Quan Tuần Tranh thị hiện và hiển linh ở sông Tranh → Nhân dân lập miếu thờ ngài — Sau này ngài hiển linh khi An Dương Vương cùng quân lính qua đây → Ngài được An Dương Vương sắc phong “Giảo Long Hầu”,
Theo chuyện “Ông Dài Ông Cụt”: Ông bà nông dân nhặt được hai quả trứng nở thành đôi bạch xà → Ông bà nông dân nuôi đôi bạch xà đỏ đến lớn → Ông bà nông dân sau đó thả đôi bạch xà về sông Tranh → Quan Tuần Tranh lộng hành ở sông Tranh → Nhân dân lập miếu thờ ngài — Sau đó ngài đã gây tai họa cướp vợ người khác và bị kết tội → Ngài bị đày đến chốn Kỳ Cùng.
Như vậy xét về mặt logic thì tác giả nhận thấy sự tích Quan Đệ Ngũ theo văn chầu là logic hơn nhiều so với chuyện “Ông Dài Ông Cụt” về mọi mặt, đặc biệt trong đó có yếu tố gắn kết chặt chẽ giữa các sự kiện với nhau để thành một câu chuyện dài có sự logic hợp lý.
Mặc dù chuyện “Ông Dài Ông Cụt” không phản ánh chính xác về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, nhưng câu chuyện trên phần nào có thể hé mở ra tấm màn kịch về sự oan ức của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh đã diễn ra như thế nào. Nói cách khác chuyện “Ông Dài Ông Cụt” được ví như là cách hiểu sai của phần lớn những người bấy giờ về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, và cũng chính là lỗi oan ức của ngài. Phần lớn mọi người không biết được ngài bị oan nên đã có một cách hiểu khác đi như vậy về ngài, từ đó mà đã hình thành câu chuyện “Ông Dài Ông Cụt”. Trong câu chuyện trên phải chăng có sự tương xứng như sau: Vua Thủy chính là Vĩnh Công Đại Vương – Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn và vị tướng tài ba thống lĩnh toàn quân; Ông Cụt là Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, là vị tướng thứ 5 trong số 10 vị tướng của Vĩnh Công Đại Vương. Và như vậy phải chăng người đã xử phạt Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh phải đi đày đến chốn Kỳ Cùng lại chính là ngài Vĩnh Công Đại Vương, đây cũng chỉ là một giả thiết suy luận mà tôi đưa ra để chúng ta tham khảo mà thôi.
Trong các buổi lễ Mẫu – Tam tứ phủ, Ông đều giáng ngự đồng. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sở tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sở trạng rồi mới được đem đi hoá.
Khi ngự đồng, văn hát: Thỉnh mời Đệ ngũ tôn quan… ngài ra tay dấu 5 ngón phía tay trái, mặc áo xanh nhạt hoặc tím than, mạng, nét, đai cùng màu áo; múa đao (bên cán đao thắt một bông hoa bằng khăn hồng hoặc đỏ), ngự tửu thuốc, nghe văn, chứng lễ, phán truyền. Ngoài làm lễ khai quang, Ngài còn chứng sở vàng mã, kiểm duyệt sử sách…
Đền Tranh, tọa lạc bên sông Tranh, là nơi thờ Quan Lớn Tuần Tranh. Ngôi đền ban đầu chỉ là miếu nhỏ, năm 1935 được dời vào làng Tranh Xuyên.
Giữa thế kỷ XX, đền được xây lớn, theo kiểu Trùng thiềm điệp ốc. Năm 1946, đền bị tháo dỡ vì kháng chiến.
Những năm 60, đền được chuyển về phía bắc thị trấn Ninh Giang. Trải qua nhiều lần di dời, trùng tu, đền Tranh chứng kiến bao thăng trầm lịch sử.
Năm 1852, đền được nhiều người góp công tu sửa. Khi Pháp chiếm đóng, đền lại phải chuyển đi. Từ 1941-1945, đền được xây to đẹp, nhưng rồi lại bị tháo dỡ năm 1946.
Năm 1954, đền được dựng lại. Năm 1966, một phần đền phải chuyển đi lần nữa.
Đền Tranh ngày nay có tiền tế, trung từ, nghi môn, hậu cung, đông vu, nhà hóa sở.
Đền có ba mùa lễ hội: tháng 2 (ngày sinh Quan Lớn), tháng 5 (ngày hóa)
Đền Kỳ Cùng, nằm bên sông Kỳ Cùng, là nơi thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Không rõ năm xây dựng, ban đầu đền chỉ là một ngôi nhà nhỏ thờ thần Giao Long.
Theo sách Đại Nam nhất thống chi, đền rất thiêng, được nhiều lần phong tặng. Đền xưa đã không còn vì thời gian và chiến tranh. Đền ngày nay được xây theo kiểu chữ đinh.
Ngoài Quan Lớn Tuần Tranh, trong đền còn thờ Tam tòa Thánh Mẫu, Trần triều Đại vương và Công Đồng Tử Phủ. Lễ hội chính của đền diễn ra từ ngày 22 đến 27 tháng Giêng âm lịch.
Hội đền Tranh có ngày mở tiệc đón, ngày đản sinh (14/2 âm lịch), ngày tiệc chính (25/5 âm lịch) và ngày giỗ (25/5 âm lịch).
Theo các tư liệu được tìm thấy, Tín Ngưỡng Việt đã sưu tầm được 3 bản văn chầu Quan Đệ Ngũ.
Trích đoạn
Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu
Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Xem chi tiết các bản văn Quan Đệ Ngũ
Trên đây là toàn bộ những thông tin quan trọng giúp các bạn tìm hiểu đầy đủ – chi tiết về Quan Đệ Ngũ.
Bài viết được thực hiện bởi Tín Ngưỡng Việt dựa theo các nguồn tài liệu:
Xin trân trọng cám ơn!
Tìm hiểu đầy đủ về Ngũ Vị Tôn Quan trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ
Tham khảo thêm