Chùa Hà (Thánh Đức Tự)

Chùa Hà (Thánh Đức Tự) kiến lập vào cuối thế kỷ 15. Chùa có địa chỉ tại số 86 phố Chùa Hà, Dịch Vọng, Cầu Giấy, Hà Nội.

Lịch sử Chùa Hà

Từ cuối thế kỷ 15, chùa được xây dựng với tên gọi ban đầu là chùa Vồi, tường được làm bằng gạch vồ, mái lợp lá gồi. Tại thượng điện, hiện còn lư hương bằng đồng với ba chữ Hán “Thánh Đức Tự”. Nghe nói tên này có nguồn gốc từ đời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), khi vị vua còn trẻ, tên hồi nhỏ là Tư Thành. Sử cũ ghi nhận rằng con trưởng Nghi Dân có tội, bị truất và thực hiện cuộc đảo chính, tấn công và giết chết vua Lê Nhân Tông (1441 – 1459) để cướp ngôi. Trong thời khó khăn đó, hoàng tử Tư Thành, khi đó mới 17 tuổi, phải giả danh con gái và chạy về lánh nạn tại chùa Thánh Chúa thuộc thôn Hậu, cũng thuộc xã Dịch Vọng. Thường xuyên, mẹ con hoàng tử Tư Thành thường đến thăm chùa Vồi ở thôn Tiền gần đó. Sau đó, chùa Vồi được đổi tên thành Thánh Đức Tự để kỷ niệm chuyện này.

Vào thời đời vua Lê Hy Tông (1663-1716), hai thương gia từ làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang) đến ở trọ bên cạnh chùa Vồi để tiện việc phân phối hàng gốm sứ cho các chợ vùng phía tây thành Thăng Long. Nhờ thành công trong buôn bán, họ quyết định cúng tiền xây dựng lại chùa bằng gạch ngói vào năm 1681. Từ đó, hai làng Thổ Hà và Dịch Vọng kết nghĩa, đặt tên xóm chùa là Bối Hà, và do đó, chùa còn được gọi là chùa Hà theo tên Nôm. Trong các dịp kỵ của làng Thổ Hà, nhân dân xóm Bối Hà thường cử đoàn đại biểu đến dâng lễ và ngược lại.

Xưa kia, chùa Hà đặt tại vị trí giáp cánh đồng ở cuối thôn Tiền thuộc xã Dịch Vọng, gần con đường huyết mạch nối từ thành Hà Nội đến thành Sơn Tây. Các địa danh ở đây liên quan đến những chiến thắng nổi tiếng trong lịch sử của nước ta. Trong số đó, ngày 19-5-1883, quân Cờ Đen mai phục trong chùa Hà đã tấn công và giết chết đại tá chỉ huy Henri Rivière cùng 7 sĩ quan xâm lược Pháp khác, khi họ vừa dẫn lính vượt Cầu Giấy để chuẩn bị tấn công Xứ Đoài. Sau đó, hài cốt của Henri Rivière được chính phủ Pháp đưa về nước, nhưng ngôi mộ cũ của ông vẫn còn dấu vết trên phố Cầu Giấy cho đến ngày nay.

Vào tối ngày 17 tháng 8 năm 1945, Uỷ ban khởi nghĩa gồm Nguyễn Khang – chủ tịch, Trần Tử Bình và Lê Trọng Nghĩa đã tụ tại Chùa Hà và đã quyết định hai ngày sau sẽ tiến hành Tổng khởi nghĩa. Năm 1982, chùa Hà đã được gắn biển “Di tích cách mạng” để ghi nhận vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa. Tháng 12-1996, Bộ Văn hoá – Thông tin đã xếp hạng bảo tồn chùa Hà, công nhận giá trị lịch sử và văn hóa quan trọng của nơi này

Kiến trúc Chùa Hà

Hiện nay, mặc dù hầu hết các công trình trong chùa vẫn tuân theo phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn, nhưng nhiều phần đã thay đổi diện mạo so với thời trước chiến tranh. Tuy nhiên, tam quan chùa vẫn được giữ nguyên và tạo ấn tượng mạnh.

Sau tam quan chùa là khu vườn cây xanh và một hồ nước nhỏ, tạo nên cảnh quan đẹp. Toà Tam bảo được xây dựng theo hình chữ “Đinh” với tiền đường rộng 5 gian và hậu cung gồm 3 gian. Bên cạnh là điện thờ Mẫu, phía sau là trai đường và khu phụ. Từ cuối thế kỷ 20, chùa Hà bất ngờ thu hút đông đảo bạn trẻ tới cầu ước tình yêu và “cắt duyên tiền kiếp”. Vì sự hâm mộ này, một số điện thờ đã được xây thêm ở phía sau chùa và bên đình, làm cho không gian di tích trở nên chật hẹp và tấp nập, khác biệt so với cảnh u tịch cổ kính trước đây.

Mặt bắc của chùa giáp sát nghĩa địa, còn mặt nam giáp với đình làng. Trong đình Bối Hà có điện thờ hai vị thành hoàng Chu Lý Đại vương và Triệu Chí Thành. Hai nhân thần này trước đây là tướng của Triệu Việt Vương Quang Phục (? – 571), người lãnh đạo quân dân nước Vạn Xuân chống lại cuộc xâm lược của nhà Lương. Đình cũng có kiến trúc hình chữ “Đinh” như chùa Hà. Sân trước bái đường của đình đã được lắp đặt khung sắt để tạo ra rạp che mưa nắng trong các dịp hội làng.

Ngoài các bộ cửa võng, câu đối, hoành phi và các pho tượng tròn được tô lại gần đây, chùa Hà còn có chiếc lư hương cổ nhất như đã đề cập trước đó và một đại hồng chung được đúc dưới thời Tây Sơn.

Các Chùa khác tại quận Cầu Giấy:

Giới thiệu về Tác Giả

Nguyễn Hưng hiện đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Mang trong mình lòng đam mê tìm hiểu văn hóa truyền thống, anh dành sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Với anh, tín ngưỡng không chỉ là nét đẹp văn hóa mà còn là sợi dây kết nối thế hệ, lưu giữ những giá trị tinh thần quý báu của dân tộc. Trên hành trình khám phá, Nguyễn Hưng luôn nỗ lực nghiên cứu, chắt lọc và chia sẻ những kiến thức bổ ích về tín ngưỡng Việt Nam đến với độc giả.